Bạn đang ở đây

sổ đỏ

Án lệ số 36: Về hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ

Thời gian đọc: 16 Phút
ÁN LỆ SỐ 36/2020/AL Về hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ

ÁN LỆ SỐ 36/2020/AL

Về hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 05 tháng 02 năm 20200 và được công bố theo Quyết định số 50/QĐ-CA ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 05/2018/KDTM-GĐT ngày 18-5-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh thương mại “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại cổ phần V với các bị đơn là ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 2, 3 phần “Nhận định của Tòa án”.

Khái quát nội dung án lệ:

- Tình huống án lệ:

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tuân thủ quy định của pháp luật nhưng sau đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ do sai sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, phải xác định hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Các điều 322, 343 Bộ luật Dân sự năm 2005; các điều 342, 411 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với các điều 317, 408 Bộ luật Dân sự năm 2015);

- Các điều 61, 62 Luật Đất đai năm 2003; các điều 46, 106 Luật Đất đai năm 2003 (tương ứng với các điều 95,167 Luật Đất đai năm 2013).

Từ khóa của án lệ:

“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ”; “Hiệu lực của hợp đồng thế chấp”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 18-5-2011 và trong quá trình tố tụng, Ngân hàng Thương mại cổ phần V khai: Ngày 22-3-2010, Ngân hàng V ký kết Hợp đồng tín dụng số 10.36.0015 với ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T. Theo đó, Ngân hàng V cho ông C, bà T vay 900.000.000 đồng, lãi suất trong hạn 12%/năm; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn; thời hạn vay 12 tháng. Để bảo đảm cho khoản vay thì ông C, bà T đã thế chấp tài sản là quyền sử dụng thửa đất diện tích 3.989,7m2 thuộc thửa đất số 12, tờ bản đồ số 05 xã H, thị xã B (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 do Ủy ban nhân dân thị xã B cấp ngày 14-7-2004) theo Hợp đồng thế chấp số 10.36.0015 ngày 18-3-2010. Giao dịch bảo đảm đã được đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thị xã B ngày 19-3-2010.

Sau khi vay tiền, ông C, bà T không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với ngân hàng V. Vì vậy, Ngân hàng V yêu cầu ông C và bà T trả toàn bộ số nợ 1.449.537.500 đồng (trong đó 900.000.000 đồng tiền gốc và 549.537.500 tiền lãi tạm tính đến ngày 17-7-2013 và lãi phát sinh đến ngày trả nợ).

Trong quá trình Hợp đồng thế chấp đang có hiệu lực thì Ủy ban nhân dân thị xã B ban hành Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 31 -8-2011 thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493. Tuy nhiên, Ngân hàng V xác định dù Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 không còn nhưng quyền sử dụng diện tích 2.400m2 đất mà ông C, bà T nhận chuyển nhượng trước đây (sau Khi điều chính theo thực tế) đã hoàn thành nên vẫn có giá trị bảo đảm cho khoản vay của ông C, bà T. Ngân hàng V sẽ đề nghị Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B ưu tiên phát mãi thanh toán cho Ngân hàng V.

Bị đơn là ông Nguyễn Văn C trình bày: ông xác nhận các thông tin về Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp như Ngân hàng V trình bày là đúng. Sau Khi vay, ông đã thanh toán cho Ngân hàng V một phần nợ lãi là 122.775.000 đồng, chưa thanh toán tiền gốc và ông đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V.

Ông và bà T đã khởi kiện vụ án hành chính đối với Quyết định số 3063/QĐ-UBND ngày 31-8-2011 của Ủy ban nhân dân thị xã B. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều không chấp nhận yêu cầu của ông, bà nên ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật vì tài sản bảo đảm hiện nay không còn.

Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2013/KDTM-ST ngày 10-12-2013, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quyết định:

Buộc ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V - Chi nhánh B số tiền 1.449.537.500 đồng, trong đó 900.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi là 549.537.500 đồng.

Tuyên bố Hợp đồng thế chấp số 10.36.0015 ngày 18-3-2010 được ký kết giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần V - Chi nhánh B với ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T về việc thế chấp diện tích đất 3.989,7m2 thuộc thửa đất số 12, tờ bản đồ số 05 xã H, thị xã B, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 do Ủy ban nhân dân thị xã B (nay là Ủy ban nhân dân thành phố B) cấp ngày 14-7-2004 đứng tên ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T vô hiệu. Do đó, không có giá trị đảm bảo việc thanh toán nợ cho Hợp đồng tín dụng số 10.36.0015 ngày 22-3-2010.

Ngày 23-12-2013, Ngân hàng Thương mại cổ phần V - Chi nhánh B có đơn kháng cáo.

Tại Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 48/2014/KDTM-PT ngày 15-8-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng Thương mại cổ phần V - Chi nhánh B; giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2013/KDTM-ST ngày 10-12-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần V - Chi nhánh B về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng đối với ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T.

- Buộc ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần V - Chi nhánh B số tiền 1.449.573.500 đồng, trong đó tiền gốc là 900.000.000 đồng và tiền lãi là 549.573.500 đồng.

- Tuyên bố hợp đồng thế chấp số 10.36.0015 ngày 18-3-2010 ký kết giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần V - Chi nhánh B với ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T về việc thế chấp diện tích 3.989,7m2 thuộc thửa đất số 12, tờ bản đồ số 5 xã H, thị xã B theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 do Ủy ban nhân dân thị xã B (nay là thành phố B) cấp ngày 14-7-2004 đứng tên ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T vô hiệu. Không có giá trị đảm bảo việc thanh toán nợ cho hợp đồng tín dụng số 10.36.0015 ngày 22-3-2010.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Sau khi xét xử phúc thẩm, Ngân hàng V có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm nêu trên.

Ngày 15-8-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 48/2014/KDTM-PT của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về phần tuyên bố Hợp đồng thế chấp số 10.36.0015 ngày 18-3-2010 vô hiệu; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy một phần Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm nêu trên và hủy một phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2013/KDTM-ST ngày 10-12-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phần tuyên bố Hợp đồng thế chấp số 10.36.0015 ngày 18-3-2010 vô hiệu; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án nhân dân tối cao.

Án lệ số 36: Về hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất khi
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ ( Ảnh minh họa )

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Ngân hàng V và ông Nguyễn Văn C cùng xác nhận giữa Ngân hàng V và ông Nguyễn Văn C, bà Vũ Thị T có ký kết Hợp đồng tín dụng số 10.36.0015 ngày 22-3-2010 và Hợp đồng thế chấp số 10.36.0015 ngày 18-3-2010. Tài sản thế chấp là diện tích đất 3.989,7m2 thuộc thửa đất số 12, tờ bản đồ số 05 xã H, thị xã B, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 do Ủy ban nhân dân thị xã B cấp ngày 14-7-2004 đứng tên ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T. Tài sản được đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thị xã B ngày 19-3-2010. Theo quy định tại Điều 343 Bộ luật Dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 10 và điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, việc thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên là đúng quy định của pháp luật.

[2] Ngày 31-8-2011, Ủy ban nhân dân thị xã B đã ban hành Quyết định số 3063/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 do Ủy ban nhân dân thị xã B cấp ngày 14-7-2004 mang tên ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T. Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên do có sai sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông C, bà T. Tuy nhiên việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất đã nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông C, bà T, vì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Trần Thị Ngọc H, ông Trần Huỳnh L và vợ chồng ông C, bà T đã hoàn tất, các bên không có tranh chấp gì về Hợp đồng chuyển nhượng này.

[3] Mặt khác, trước Khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T bị thu hồi, ông C, bà T đã thế chấp quyền sử dụng đất này cho Ngân hàng nhiều lần để vay tiền, gần nhất là ngày 19-3-2010. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T với Ngân hàng tuân thủ đúng quy định pháp luật nên Hợp đồng này có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ Điều 411 Bộ luật Dân sự năm 2005 cho rằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 10.36.0015 ngày 18-3-2010 nêu trên vô hiệu do đối tượng của Hợp đồng thế chấp này không còn là không đúng.

[4] Tại Công văn số 887/CNVPĐK-ĐKCG ngày 28-3-2017, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B xác định: Sau khi Ủy ban nhân dân thị xã B ban hành Quyết định số 3063/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 và Bản án hành chính phúc thẩm số 01/2013/HC-PT ngày 04-01-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có hiệu lực pháp luật thì Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B đã có các Quyết định Thi hành án theo các bản án dân sự đã có hiệu lực pháp luật mà bà Trần Thị Ngọc H có nghĩa vụ phải Thi hành. Theo đó, đã tổ chức bán đấu giá tài sản diện tích 2.741,1m2 đất thuộc thửa 386 tờ bản đồ số 05 xã H. Ông Bùi Văn C1 là người trúng đấu giá quyền sử dụng diện tích 2.747,1m2 đất. Ngày 14-3-2016, Ủy ban nhân dân thành phố B đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA959055 đối với diện tích trúng đấu giá nêu trên cho ông Bùi Văn C1.

[5] Do vậy, để bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các đương sự, Khi giải quyết lại vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm cần phải căn cứ khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự để đưa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, bà Trần Thị Ngọc H, ông Bùi Văn C1 và Ủy ban nhân dân thành phố B vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mới giải quyết toàn diện và triệt để vụ án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 137, khoản 3 Điều 343 và Điều 345 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 17/2017/KN-KDTM ngày 04-8-2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2. Hủy một phần Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 48/2014/KDTM-PT ngày 15-8-2014 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy một phần Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 04/2013/KDTM-ST ngày 10-12-2013 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đối với vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần V với bị đơn là ông Nguyễn Văn C, bà Vũ Thị T, về phần tuyên bố Hợp đồng thế chấp số 10.36.0015 ngày 18-3-2010 vô hiệu.

3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[2] Ngày 31-8-2011, Ủy ban nhân dân thị xã B đã ban hành Quyết định số 3063/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ544493 do Ủy ban nhân dân thị xã B cấp ngày 14-7-2004 mang tên ông Nguyễn Văn C và bà Vũ Thị T. Việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên do có sai sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông C, bà T. Tuy nhiên việc thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất đã nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông C, bà T, vì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Trần Thị Ngọc H, ông Trần Huỳnh L và vợ chồng ông C, bà T đã hoàn tất, các bên không có tranh chấp gì về Hợp đồng chuyển nhượng này.

[3] Mặt khác, trước khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T bị thu hồi, ông C, bà T đã thế chấp quyền sử dụng đất này cho Ngân hàng nhiều lần để vay tiền, gần nhất là ngày 19-3-2010. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ông C, bà T với Ngân hàng tuân thủ đúng quy định pháp luật nên Hợp đồng này có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ Điều 411 Bộ luật Dân sự năm 2005 cho rằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 10.36.0015 ngày 18-3-2010 nêu trên vô hiệu do đối tượng của Hợp đồng thế chấp này không còn là không đúng.”

(Án lệ này do PGS.TS Đỗ Văn Đại, Trường khoa Luật Dân sự Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Thành viên Hội đồng tư vấn án lệ đề xuất.)

Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự
Trụ sở: Phòng 403 tầng, số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ quận Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại: 024.6299.6666; Fax: 024.62.55.88.66
Web: hongbach.vn; Email: bach@hongbach.vn

"Sổ đỏ" sai, thủ tục đính chính "sổ đỏ" thế nào?

Thời gian đọc: 5 Phút
Khái niệm "sổ đỏ" hoặc "sổ hồng" đều là khái niệm dân sự thông thường dựa theo màu sắc của giấy tờ; sổ đỏ hay sổ hồng được ghi nhận với tên chính thức là: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Câu hỏi: Thưa luật sư từ thời bố mẹ tôi ở phần từ trước đến nay có diện tích đất sử dụng theo sổ xanh được cấp vào năm 2000. Năm 2018 tôi có làm thủ tục cấp sang sổ đỏ nhưng đến nay tôi phát hiện diện tích đất sổ đỏ sai với sổ xanh. Nhờ luật sư giúp tôi cách đính chính lại sổ đỏ như sổ xanh có được không ạ?

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi tới Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự. Với nội dung thắc mắc của bạn, Luật Hồng Bách có ý kiến tư vấn như sau:

Đầu tiên chúng ta phải hiểu như thế nào là sổ xanh?

Hiện nay Luật đất đai năm 2013 không có quy định về khái niệm “sổ xanh”. Đây là khái niệm dân sự thông thường dựa vào màu sắc của loại giấy tờ mà họ có.  Thường sổ xanh do Lâm Trường cấp để quản lý, khai thác và trồng rừng có thời hạn (hình thức là cho thuê đất hoặc cho thuê khoán hoặc giao cho người sử dụng đất trong một khoảng thời gian nhất định). Và sổ xanh thì không được coi là văn bản có giá trị pháp lý ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp mà Nhà nước Việt Nam công nhận cho người sử dụng đất; mà nó có thể là giấy tờ được sử dụng làm căn cứ cấp GCN QSDĐ cho người sử dụng đất.

Nói cách khác, sổ xanh là giấy xác nhận cho thuê đất lâu dài của Lâm Trường; khi sổ xanh hết hạn, đất đó có thể sẽ bị Lâm Trường thu hồi nếu như địa phương đó chưa có chính sách giao đất cho người dân.

Cách đính chính sổ đỏ theo sổ xanh thế nào?

Hiện nay, khái niệm sổ đỏ hoặc sổ hồng đều là khái niệm dân sự thông thường dựa theo màu sắc của giấy tờ; sổ đỏ hay sổ hồng được ghi nhận với tên chính thức là: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Tuy nhiên, theo thông tin mà bạn cung cấp, chúng tôi hiểu rằng diện tích đất mà gia đình bạn đang sử dụng đã được cấp GCNQSDĐ; hiện nay, diện tích đất ghi trên sổ đỏ khác so với sổ xanh trước đây và bạn muốn đính chính sổ đỏ theo sổ xanh.

Như nội dung chúng tôi đã tư vấn, sổ xanh là một trong số những giấy tờ làm căn cứ để cấp GCNQSDĐ và nó không là chứng thư pháp lý/hay giấy tờ có giá trị xác định quyền sử dụng đất hợp pháp được Nhà nước công nhận. Do vậy, nếu căn cứ vào sổ xanh- một loại chứng từ để cấp sổ đỏ để đính chính lại sổ đỏ thì chưa đủ căn cứ.

Thực tế nếu trong trường hợp việc cấp GCNQSDĐ của gia đình bạn đối với thửa đất trên không có căn cứ là sổ xanh được cấp từ trước, vậy thì cần phải xem xét lại điều kiện được cấp sổ đỏ trong trường hợp cấp sổ lần đầu đối với thửa đất đó. Mặt khác, khoản 1, điều 106 luật đất đai 2013 quy định trường hợp được đính chính GCNQSDĐ như sau:

Điều 106. Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp

1. Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận có trách nhiệm đính chính Giấy chứng nhận đã cấp có sai sót trong các trường hợp sau đây:

a) Có sai sót thông tin về tên gọi, giấy tờ pháp nhân hoặc nhân thân, địa chỉ của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất so với giấy tờ pháp nhân hoặc nhân thân tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận của người đó;

b) Có sai sót thông tin về thửa đất, tài sản gắn liền với đất so với hồ sơ kê khai đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất đã được cơ quan đăng ký đất đai kiểm tra xác nhận.”

Nên, việc đính chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần phải căn cứ vào hồ sơ kê khai đăng ký đất đai, tức là cần phải xem xét lại về hồ sơ khi tiến hành cấp sổ của gia đình bạn gồm những thông tin gì để tiến hành đính chính.

Vậy bản chất, sổ xanh là căn cứ để cấp GCNQSDĐ và bản thân nó không là văn bản được cơ quan Nhà nước cấp cho người sử dụng đất để công nhận quyền đối với phần diện tích đất mà bạn đang sử dụng. Do đó bạn chỉ thực hiện thủ tục đính chính GCN QSDĐ khi thửa đất của bạn đã được cấp sổ đỏ hoặc sổ hồng theo quy định pháp luật chứ không phải là sổ xanh như bạn đã mô tả.

Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự

Trụ sở: Số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ quận Đống Đa, Hà Nội

Điện thoại: 024.6299.6666; Fax: 024.62.55.88.66

Web: hongbach.vn; Email: bach@hongbach.vn

Các loại thuế cần phải đóng khi thực hiện chuyển nhượng bất động sản?

Thời gian đọc: 3 Phút
Khi chuyển nhượng đất đai, nhà ở cần phải đóng những loại thuế gì?

Câu hỏi của bạn: Tôi chuẩn bị mua một mảnh đất ở gần nhà, xin hỏi luật sư theo quy định của pháp luật hiện nay để thực hiện việc chuyển nhượng thì các loại thuế, phí tôi sẽ phải nộp gồm những loại nào và các chi phí đó được tính như thế nào?

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi tới Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự. Với nội dung câu hỏi của bạn thì Luật sư của Luật Hồng Bách có quan điểm tư vấn như sau:

Căn cứ pháp lý:

Luật đất đai 2013;

Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013;

Thông tư 24/2014/TT-BTNMT quy định về hồ sơ địa chính.

Nghị định 140/2016/NĐ-CP về lệ phí trước bạ;

Nghị định 20/2019/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 140/2016/NĐ-CP;

Thông tư 92/2015/TT-BTC hướng dẫn thực hiện thuế TNCN;

Thông tư 250/2016/TT-BTC về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền HĐND cấp tỉnh.

Lệ phí trước bạ

Khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở (gọi chung là chuyển nhượng nhà đất) mà giá chuyển nhượng cao hơn giá do UBND cấp tỉnh ban hành thì nộp lệ phí trước bạ theo công thức sau:

Lệ phí trước bạ phải nộp = 0.5% x Giá chuyển nhượng

Trường hợp giá chuyển nhượng bằng hoặc thấp hơn giá tính lệ phí trước bạ do UBND cấp tỉnh ban hành thì lệ phí trước bạ được tính theo giá do UBND cấp tỉnh quy định.

Thuế thu nhập cá nhân khi sang tên

Theo Điều 17 Thông tư 92/2015/TT-BTC, giá chuyển nhượng nhà đất bằng hoặc cao hơn giá nhà, đất do UBND cấp tỉnh quy định thì thuế thu nhập cá nhân được tính như sau:

Thuế thu nhập cá nhân = 2% x Giá chuyển nhượng

Các loại phí khác phải nộp

Ngoài các loại thuế, trước bạ nêu trên, còn có một số loại phí sang tên như phí địa chính, phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận… Mức thu các loại phí này do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi có bất động sản quyết định, và được ban hành theo Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có bất động sản.

Lưu ý:

  • Các loại thuế, phí, lệ phí trên đây là số tiền mà bên mua, bên bán nộp cho Nhà nước. Ngoài ra, khi chuyển nhượng các bên phải công chứng hợp đồng chuyển nhượng và phí công chứng là phí mà người có yêu cầu công chứng trả cho tổ chức công chứng.
  •  Theo quy định, người có thu nhập (người bán) có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân, người mua có nghĩa vụ nộp lệ phí trước bạ. Tuy nhiên, pháp luật không cấm việc các bên thỏa thuận người nộp thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ nên các bên được phép thỏa thuận tùy theo tinh hình thực tế.

Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự

Trụ sở: Phòng 403 tầng, số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội

Điện thoại: 024.6299.6666; Email: bach@hongbach.vn

Chồng mất năng lực hành vi dân sự, vợ có tự ý bán đất được không?

Thời gian đọc: 6 Phút
Việc định đoạt các quyền đối với thửa đất phải được sự đồng ý của cả bố mẹ bạn. Tuy nhiên, do bố bạn đã bị tuyên bố mất năng lực hành vi nên mọi giao dịch dân sự của bố bạn đều do người giám hộ - đại diện theo pháp luật của bố bạn thực hiện.

Câu hỏi: Bố mẹ tôi được UBND huyện H cấp Sổ đỏ năm 2018 được quyền sử dụng 140 m2 đất. Năm 2019, bố tôi bị mất năng lực hành vi đã có Quyết định của tòa án tuyên bố bố tôi bị mất năng lực hành vi dân sự. Hiện, nay, mẹ tôi muốn bán mảnh đất nêu trên thì gia đình tôi phải làm gì? Mong luật sư giải đáp cho tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Với nội dung câu hỏi của bạn, Luật sư có quan điểm tư vấn như sau:

  1. Văn bản pháp luật tham khảo.
  • Bộ luật dân sự 2015;
  • Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
  • Luật Hộ tịch 2014;
  • Luật công chứng 2014;
  1. Nội dung tư vấn.

Do thửa đất mang tên bố mẹ bạn nên đây được xác định là tài sản chung của bố mẹ bạn được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Việc định đoạt các quyền đối với thửa đất phải được sự đồng ý của cả bố mẹ bạn. Tuy nhiên, do bố bạn đã bị tuyên bố mất năng lực hành vi nên mọi giao dịch dân sự của bố bạn đều do người giám hộ - đại diện theo pháp luật của bố bạn thực hiện. Trong trường hợp này, căn cứ theo khoản 3 điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì mẹ bạn sẽ là người đại diện của bố bạn, thay mặt bố bạn thực hiện các giao dịch dân sự có liên quan. Do đó, trong trường hợp này, mẹ bạn là người thay bố bạn quyết định việc bán đất.

Tuy nhiên, để hạn chế việc mẹ bạn thực hiện các giao dịch làm ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích của bố bạn thì pháp luật có quy định về chế định người giám sát việc giám hộ. Theo đó, tại khoản 1 điều 51 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người giám sát việc giám hộ như sau:

Người thân thích của người được giám hộ thỏa thuận cử người giám sát việc giám hộ trong số những người thân thích hoặc chọn cá nhân, pháp nhân khác làm người giám sát việc giám hộ.

Việc cử, chọn người giám sát việc giám hộ phải được sự đồng ý của người đó. Trường hợp giám sát việc giám hộ liên quan đến quản lý tài sản của người được giám hộ thì người giám sát phải đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ.

Người thân thích của người được giám hộ là vợ, chồng, cha, mẹ, con của người được giám hộ; nếu không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột của người được giám hộ; nếu cũng không có ai trong số những người này thì người thân thích của người được giám hộ là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người được giám hộ.

Như vậy, trong trường hợp này, để có thể thực hiện việc bán đất của bố bạn thì gia đình bạn cần lựa chọn người giám sát việc giám hộ, người giám sát việc giám hộ có thể một trong những người chúng tôi vừa nêu trên và gia đình bạn thực hiện thủ tục đăng ký người giám sát việc giám hộ tại UBND cấp xã nơi bố bạn cư trú. Việc thực hiện thủ tục đăng ký người giám sát việc giám hộ được thực hiện như sau:

Gia đình bạn chuẩn bị Văn bản cử người giám sát việc giám hộ;

Các giấy tờ tùy thân của người giám sát việc giám hộ;

Sau đó, gia đình bạn đến UBND cấp xã nơi bố bạn thực hiện việc đăng ký người giám sát việc giám hộ, trên cơ sở hồ sơ của gia đình bạn thì cán bộ, công chức của UBND cấp xã ghi nhận vào Hộ tịch của bố bạn. Tiếp theo người giám sát việc giám hộ của bố bạn lập văn bản đồng ý để mẹ bạn bán các tài sản của bố bạn.

Trên cơ sở các văn bản này thì mẹ bạn có toàn quyền thay mặt, đại diện cho bố bạn bán các tài sản là quyền sử dụng đất của bố bạn. Lưu ý, theo quy định của Luật đất đai thì Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành Văn bản có công chứng hoặc chứng thực theo quy định pháp luật, và sau đó các bên trong Hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký đất đai cấp huyện để ghi nhận quyền sử dụng đất đối với bên mua. Như vậy, sau khi thực hiện xong các thủ tục nêu trên thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bố bạn đã hoàn tất.

Trên đây là những nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề pháp lý bạn đang vướng mắc, nếu còn thông tin cần làm rõ đề nghị bạn phản hồi với chúng tôi qua địa chỉ:

Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự

Trụ sở: Phòng 403, tầng 4, số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội

Điện thoại: 024.6299.6666;  Email:bach@hongbach.vn