Năm 1988, cô H lấy chồng. Bố mẹ chồng mất năm 1986 có để lại cho chồng 1 mảnh đất (không có di chúc), hai vợ chồng sinh sống tại mảnh đất này ổn định. Mảnh đất được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1996.
Trong thời gian sinh sống, cô H thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với mảnh đất. Năm 2003, chồng cô H mất. Năm 2021, anh chị em bên chồng khởi kiện yêu cầu chia tài sản do cho rằng mảnh đất của vợ chồng cô H sinh sống là di sản của bố mẹ để lại. Cô H muốn biết mình có toàn quyền được bán đất khi chồng mất không ?
Với câu hỏi cô H, Hongbach.vn có quan điểm tư vấn như sau:
Thứ nhất, anh chị em nhà chồng cho rằng đây là tài sản chung của anh chị em và là di sản của bố mẹ để lại, họ có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án phân chia di sản thừa kế. Tuy nhiên, tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế; hết thời hiệu, di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Trong trường hợp của cô H, thời điểm mở thừa kế bắt đầu được tính từ năm 1986, là năm bố mẹ chồng mất theo quy định tại Điều 611 Bộ luật Dân sự 2015: Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.
Do đó, đã hết thời hiệu để người thừa kế được yêu cầu chia di sản. Với yêu cầu khởi kiện về di sản thừa kế của anh chị em bên nhà chồng cô H, tòa án vẫn có thể thụ lý.
Trong trường hợp này, cô H cần chú ý Điều 184 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. Cô có thể yêu cầu Tòa án áp dụng quy định về thời hiệu theo Bộ luật Dân sự 2015 nhưng cần lưu ý điều kiện yêu cầu phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc.
Với yêu cầu của cô H, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo Điểm 2 Khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Thứ hai, chứng cứ chứng minh quyền của cô H với mảnh đất gồm : Lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; các giấy tờ chứng minh cô H là vợ của người chồng đã mất.
Thứ ba, theo Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, Cô H và chồng lấy nhau năm 1988, mảnh đất được cấp quyền sử dụng năm 1996, do đó thửa đất được xác nhận quyền sử dụng đất trong thời kỳ hôn nhân, là tài sản chung và vợ chồng cô H có quyền sử dụng với diện tích đất này.
Năm 2003 chồng cô H chết dẫn đến phát sinh quyền thừa kế của cô H và các con của cô với di sản chồng để lại. Phần di sản mà người chồng để lại được xác định là phần tài sản riêng của người đã chết và phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác theo Điều 612 Bộ luật Dân sự 2015.
Mảnh đất được coi là tài chung của hai vợ chồng sẽ được chia đôi; cô H có quyền sử dụng với 1/2 mảnh đất theo quy định Điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi.
Đồng thời, do chồng cô H không có di chúc nên di sản mà chồng để lại được chia theo pháp luật. Căn cứ tại Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, cô H thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên cô được 1 phần thừa kế với 1/2 mảnh đất là di sản của người chồng đã mất.
Tuy nhiên cô H cần lưu ý, cô H có bao nhiêu người con thì mỗi người con được coi là một đồng thừa kế với 1/2 diện tích đất là di sản của chồng cô; các anh chị em bên chồng không phải là người được quyền thừa kế với phần đất này.
Như vậy, để bán được mảnh đất thì trước hết phải đảm bảo mảnh đất không còn tranh chấp. Sau đó, cần phân chia di sản thừa kế của chồng cô H để đảm bảo quyền lợi không chỉ cho cô mà cho những người có quyền và lợi ích liên quan thì việc chuyển nhượng mảnh đất mới hợp pháp.
Trên đây là nội dung tư vấn của Hongbach.vn liên quan đến vấn đề pháp lý mà bạn đang vướng mắc. Nếu còn nội dung nào cần làm rõ, bạn phản hồi với Công ty chúng tôi qua địa chỉ:
Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự
Địa chỉ: Số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội.
Điện thoại: 024.6299.6666; Fax: 024.62.55.88.66
Email: bach@hongbach.vn; Web: hongbach.vn