Bạn đang ở đây

tham nhũng

Dự thảo Nghị quyết mới của TAND Tối cao: Cấp dưới “làm theo lệnh” được MIỄN TRUY CỨU HÌNH SỰ nếu đủ 3 điều kiện “vàng” – đột phá hay rủi ro?

Thời gian đọc: 9 Phút
TAND Tối cao đang mở rộng lấy ý kiến đối với Dự thảo sửa Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự đối với tội phạm tham nhũng và các tội phạm khác về chức vụ, một điểm nhấn mang tính đột phá làm cộng đồng “dậy sóng”: chính sách khoan hồng đặc biệt miễn truy cứu hình sự dành cho “người thực hiện theo chỉ đạo” – đặc biệt là cấp dưới tuân thủ mệnh lệnh cấp trên mà bị vướng vào vòng lao lý.

Vậy: Người phạm tội là cấp dưới được MIỄN HÌNH PHẠT trong trường hợp nào?

  1. Cụ thể, theo Khoản 1 Điều 5 Dự thảo Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm về tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ và các quy định việc xử lý tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ phải bảo đảm nghiêm khắc và tuân thủ triệt để các nguyên tắc của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự.
  2. Tại Khoản 2 điều 5 Dự thảo nêu, trong quá trình tố tụng, người phạm tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và đã hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì không áp dụng mức cao nhất của khung hình phạt đối với người phạm tội.
  1. Đồng thời, tại khoản 3 Điều 5 Dự thảo Nghị quyết nêu: Cơ quan tiến hành tố tụng xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS hoặc người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
  1. Người phạm tội không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, mà chỉ vì muốn đổi mới, dám đột phá vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
  2. Người phạm tội là người có quan hệ lệ thuộc (như cấp dưới đối với cấp trên, người làm công hưởng lương, chấp hành nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên), không ý thức được đầy đủ hành vi phạm tội của mình, không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, không được hưởng lợi; đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần có hiệu quả vào việc điều tra, xử lý tội phạm.
  3. Người phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra.
  4. Người phạm tội sau khi bị phát hiện đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra.
 

Theo quy định tại điểm b khoản 3 điều 5 nêu trên, đối với cấp dưới nếu phạm tội trong mối quan hệ lệ thuộc và có hành vi, thái độ hợp tác tích cực sau phạm tội thì có thể được miễn hình phạt. Điều này không phải miễn truy cứu hình sự hoàn toàn mà chỉ miễn hình phạt sau khi đã bị truy cứu, dựa trên đánh giá của Tòa án.

3 điều kiện để được xem xét không truy cứu trách nhiệm hình sự

Đáng chú ý, khoản 4 Điều 5 Dự thảo đề xuất quy định mới hướng dẫn về điều kiện để một người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có đủ 3 điều kiện:

  1. Thực hiện hành vi phạm tội nhưng vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh mà không có khiếu nại, tố cáo hoặc đã giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo liên quan theo quy định.
  2. Không tham nhũng, không gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước, hoặc có gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước nhưng đã khắc phục toàn bộ hậu quả.
  3. Dự án, công trình có sai phạm đã được hoàn thành, mang lại hiệu quả kinh quả tế - xã hội cho địa phương, đất nước.

Đây là quy định chung, không chỉ dành riêng cho cấp dưới, nhưng có thể áp dụng nếu cấp dưới thực hiện theo lệnh và hành vi đáp ứng các tiêu chí trên. Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự đối với tội phạm tham nhũng và các tội phạm khác về chức vụ, đánh dấu bước tiến mang tính đột phá, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro lạm dụng và khó kiểm soát.

Dự thảo mang tính đột phá

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia pháp lý, quy định này được đánh giá là một trong những bước tiến mới trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW của Bộ Chính trị về "đổi mới, sáng tạo vì lợi ích quốc gia". Cụ thể, với các quan điểm:

  • Bảo vệ cấp dưới và khuyến khích đổi mới: Trước đây, cấp dưới có thể bị "liên lụy" khi tuân thủ lệnh cấp trên, dẫn đến tâm lý có phần e ngại, trì trệ trong công việc. Quy định miễn hình phạt hoặc không truy cứu nếu không có yếu tố vụ lợi, khuyến khích cấp dưới dám nghĩ, dám làm, dám đột phá trong nhiệm vụ, công việc được phụ trách đặc biệt trong bối cảnh Nhà nước đang triển khai các dự án lớn về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục - quốc phòng…
  • Tích hợp khoan hồng thực tiễn: Kết hợp hài hòa với Điều 59 BLHS (về miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp đặc biệt), dự thảo mở rộng phạm vi khoan hồng cho người “thực hiện theo chỉ đạo”. Điều này mang lại nhiều lợi ích thiết thực:
    • Tập trung nguồn lực xử lý người cầm đầu, chủ mưu, vai trò mấu chốt;
    • Giảm số lượng vụ án tham nhũng nhỏ lẻ, tránh xử lý hình sự tràn lan;
    • Khuyến khích tự nguyện khai báo, hợp tác điều tra, khắc phục tối đa thiệt hại → rút ngắn thời gian giải quyết vụ án, tiết kiệm ngân sách nhà nước.
  • Hỗ trợ phát triển kinh tế: Quy định giảm rủi ro pháp lý cho cả cán bộ công chức và doanh nghiệp tham gia dự án nhà nước, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch.

Dự thảo mang tính chất chứa đựng rủi ro

Mặc dù dược đánh giá là mang tính đột phá nhưng quy định này theo nhiều chuyên gia cũng chứa đựng một số rủi ro tiềm ẩn, dựa trên pháp lý và thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam:

  • Lạm dụng để che đậy tham nhũng: Các điều kiện như "mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội" hay "không vụ lợi" có thể bị nhìn nhận một cách chủ quan, phiến diện dẫn đến tình trạng cán bộ cấp cao lợi dụng che giấu thất thoát. Ví dụ, một dự án gây lãng phí ban đầu nhưng sau được "khắc phục" bằng cách bù đắp từ nguồn khác. Điều này tạo kẽ hở pháp lý cho các hành vi tham nhũng có tổ chức, có sự bao che từ cấp cao. Từ đó có thể gây khó khăn cho các Cơ quan tư pháp trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm.
  • Khó khăn trong đánh giá và minh bạch:
    • “ Chủ thể nào có thẩm quyền xác định “hiệu quả kinh tế - xã hội”?
      • Cơ quan chuyên ngành? → Dễ thiếu khách quan.
      • Tòa án? → Có thể thiếu chuyên môn đánh giá kinh tế.
      • Hội đồng thẩm định độc lập? → Chưa có quy định cụ thể.
    • Thiếu đi tiêu chí định lượng rõ ràng (như tỷ suất hoàn vốn, lợi ích xã hội đo lường được…). Từ đó dễ dẫn đến xử lý bất nhất giữa các vụ việc, làm suy yếu hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
  • Ảnh hưởng đến công bằng pháp lý và lòng tin xã hội: Cấp dưới có thể bị ép tuân lệnh sai trái mà không dám phản đối, hoặc quy định chỉ bảo vệ "cấp dưới" mà không xử lý nghiêm cấp trên, dẫn đến tình trạng "trên bảo dưới không nghe" hoặc ngược lại. Ngoài ra, nếu quy định áp dụng không nhất quán, có thể làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào hệ thống tư pháp, đặc biệt khi các vụ tham nhũng lớn thường liên quan lợi ích nhóm.

Quy định về xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng

Thời gian đọc: 3 Phút
Ngày 16/5/2023, Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành Quyết định 07/2023/QĐ-KTNN về Quy trình kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.

Theo nội dung Quyết định 07/2023/QĐ-KTNN, việc xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được quy định như sau: 

- Hội đồng quy định tại khoản 1 Điều 13 Quy trình này tham mưu cho Tổng Kiểm toán nhà nước xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng theo quy định tại Điều 62 Luật Phòng, chống tham nhũng, như sau:

- Trường hợp vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì chuyển ngay hồ sơ vụ việc và kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét, khởi tố vụ án hình sự, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

- Trường hợp vụ việc không có dấu hiệu tội phạm thì kiến nghị cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý người có hành vi vi phạm. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền xử lý phải thông báo bằng văn bản về kết quả xử lý cho Kiểm toán nhà nước.

Quyết định 07/2023/QĐ-KTNN về Quy trình kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.
Ảnh minh họa: nguồn Internet

- Thủ trưởng đơn vị chủ trì cuộc kiểm toán có trách nhiệm hoàn chỉnh hồ sơ, báo cáo vụ việc có dấu hiệu tham nhũng để trình Tổng Kiểm toán nhà nước (qua Vụ Tổng hợp) ký gửi các cơ quan theo quy định.

- Kết thúc cuộc kiểm toán, Đoàn kiểm toán có trách nhiệm tổng hợp kết quả kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng vào Báo cáo kiểm toán của cuộc kiểm toán.

Ngoài ra, kiểm toán nhà nước có trách nhiệm công khai Báo cáo kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng.

Việc công khai Báo cáo kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được thực hiện theo quy định của Kiểm toán nhà nước về công khai kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán./.

Quyết định 07/2023/QĐ-KTNN có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/6/2023.

Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự
Trụ sở: Số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội.
Điện thoại: 024.6299.6666 ; Fax: 024.62.55.88.66
Web: hongbach.vn; Email: bach@hongbach.vn:

Xem chi tiết và tải Quyết định 07/2023/QĐ-KTNN tại đây:
 

Tệp đính kèm: 

Vì sao tài sản tham nhũng, thất thoát thu hồi “nhỏ giọt”?

Thời gian đọc: 11 Phút
VOV.VN - Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát trong thời gian qua còn thấp là do các biện pháp để đảm bảo công tác thu hồi chưa kịp thời.

Công tác thu hồi tài sản tham nhũng và tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế là vấn đề được dư luận đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng gây thiệt hại lớn cho Nhà nước nhưng mới thu hồi được những khoản tiền bồi thường “nhỏ giọt”.

Như vụ án Dương Chí Dũng - nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinalines và đồng phạm phải bồi thường 110 tỷ đồng, nhưng mới thi hành được trên 21 tỷ đồng. Vụ "đại án" kinh tế Huỳnh Thị Huyền Như, tòa tuyên án bị cáo phải sung công 9.000 tỷ đồng, nhưng qua thẩm tra, thẩm định, chỉ thu về cho Nhà nước được hơn 500 tỷ đồng. Hay như bị cáo Đinh La Thăng mới chỉ nộp được 4,5 tỉ đồng trên tổng số 630 tỉ đồng phải thi hành trong 2 vụ án. Bị cáo Trịnh Xuân Thanh, cựu Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty xây lắp Dầu khí Việt Nam cũng mới chỉ thi hành xong 31 tỉ đồng trong tổng số bồi thường là 122 tỉ đồng, còn 91 tỉ đồng phải nộp chưa thu hồi được....

Biện pháp để đảm bảo công tác thu hồi tài sản chưa kịp thời

Trao đổi với phóng viên VOV.VN, ông Đinh Văn Minh - Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Thanh tra Chính phủ) cho rằng, thời gian qua, các cơ quan chức năng đã có rất nhiều cố gắng, tỷ lệ thu hồi tài sản đã tăng lên, tuy nhiên, so với yêu cầu thì vẫn chưa đạt, tỷ lệ thu hồi số tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt vẫn còn khá thấp.

Ông Đinh Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Thanh tra Chính phủ. (Ảnh: Thi Uyên)

Nguyên nhân dẫn đến câu chuyện này có nhiều, có thể từ thể chế, hay do năng lực chỉ đạo, điều hành, yếu tố con người... trong đó không thể không kể đến nguyên nhân do các biện pháp để đảm bảo công tác thu hồi chưa kịp thời. Đối với cơ quan thi hành án, chỉ khi có bản án thì mới tiến hành thu hồi tài sản. Thế nhưng, trong cả giai đoạn thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, nếu không có biện pháp đảm bảo thu hồi được tài sản thì sẽ rất khó xử lý.

“Như vụ Trịnh Xuân Thanh hay Đinh La Thăng, dù tài sản thu hồi rất lớn, nhưng không có biện pháp ngăn chặn ngay từ đầu nên trong suốt quá trình thanh tra, kiểm tra, truy tố, xét xử, ban hành bản án thì đối tượng đã tẩu tán, hoặc hợp thức hóa, chuyển dịch tài sản rất nhiều” – ông Đinh Văn Minh nêu dẫn chứng.

Theo Vụ trưởng Vụ pháp chế, công tác thi hành án liên quan đến nhiều thủ tục, thuộc nhiều cơ quan, bởi vì tài sản của các đối tượng phạm tội không chỉ có tiền, mà còn có thể là cổ phiếu, nhà đất và nhiều thứ khác. Việc kê biên, định giá tài sản, thẩm định giá... là cả một câu chuyện phức tạp, hơn nữa trình tự thủ tục hiện nay cũng khá rắc rối, bất hợp lý nên thời gian bị kéo dài.

Tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế thấp còn có nguyên nhân từ yếu tố con người, do trình độ, năng lực của cán bộ tham gia quá trình thu hồi không đạt, thậm chí không loại trừ cả biểu hiện tiêu cực.

“Có nguyên nhân từ thể chế, chỉ đạo điều hành, nguyên nhân từ con người khiến công tác thu hồi tài sản gặp nhiều khó khăn, mặc dù hiện nay tỷ lệ thu hồi đã tăng lên nhiều, như trước kia chỉ thu hồi được 5%, 7%, hiện nay thu hồi được gần 70%, tuy nhiên vẫn còn hơn 30% không thu hồi được là một con số rất cao. Như ông Đinh La Thăng phải nộp lại hơn 800 tỷ đồng trong 4 vụ án, nhưng ông ấy chỉ có một cái nhà 4,5 tỷ; như Trịnh Xuân Thanh mới thu hồi được 1/4, như vậy số còn lại là rất lớn” – ông Đinh Văn Minh cho biết.

Cùng bàn về nội dung này, luật sư Nguyễn Hồng Bách – Công ty luật Hồng Bách và cộng sự cho rằng, một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát còn thấp do việc thi hành án dân sự động chạm trực tiếp tới quyền sở hữu/sử dụng tài sản của người phải thi hành án nên đa phần người thi hành án cố tình không phối hợp với các cơ quan chức năng để xử lý dứt điểm việc thi hành án. Đặc biệt một số vụ việc  thi hành án có giá trị lớn nên người thi hành án có biểu hiện chống đối, cố tình tạo ra các sự kiện tranh chấp để quá trình thi hành án diễn ra chậm, tạo điều kiện thuận lợi tìm thời cơ thích hợp để tẩu tán tài sản.

Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các cơ quan tố tụng, các cơ quan có liên quan còn chưa có sự thống nhất. Ngoài ra, trong quá trình tổ chức thi hành án, nhiều vụ việc phải tạm dừng do có yêu cầu của các cơ quan có thẩm quyền do đương sự trong vụ án làm đơn đề nghị xem xét Bản án/quyết định của Tòa đã có hiệu lực thi hành theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới lượng án chưa được thi hành còn lớn. Đặc biệt, trong quá trình thi hành án còn không được sự phối hợp của các doanh nghiệp có liên quan.

“Do thi hành án liên quan đến các tài sản là các khoản tiền/tài sản không phải đăng ký nên người phải thi hành án rất nhanh tẩu tán tài sản của mình cho người khác, nhằm trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án. Hay nói cách khác do đặc điểm của tài sản phải thi hành án là các tài sản dễ đưa vào các giao dịch dân sự. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thi hành án không đạt hiệu quả cao” – luật sư Nguyễn Hồng Bách phân tích.

Kiểm soát được các giao dịch lớn

Đề cập đến Chỉ thị số 04 của Ban Bí thư vừa được ban hành, ông Đinh Văn Minh cho biết, Chỉ thị có nhiều yêu cầu mới như rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt; cơ chế thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội; nghiên cứu rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật về thanh tra, kiểm toán, tố tụng hình sự, thi hành án dân sự và các quy định pháp luật liên quan theo hướng bổ sung cho thanh tra viên, kiểm toán viên thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn việc tẩu tán tài sản khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm tham nhũng, kinh tế.

Đối với các vụ hình sự về tham nhũng, kinh tế hiện nay vấn đề quan tâm đầu tiên là tài sản, phải biết được tài sản của các đối tượng phạm tội cất giấu chỗ nào, tẩu tán ở đâu, tài sản gì thu được ngay... những vấn đề này luật pháp đều cho phép làm.

Đặc biệt, vấn đề ngăn chặn tẩu tán tài sản rất quan trọng, các cơ quan có thẩm quyền hay các cơ quan, tổ chức khác như ngân hàng, nhà đất... phải có sự phối hợp với nhau, có thể chưa thu được tài sản ngay nhưng phải kiểm soát để tài sản không bị tẩu tán và hợp thức hóa.

Cũng theo ông Đinh Văn Minh, hiện nay quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập có nhiều điểm mới, trong đó có quy định cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập có thể áp dụng ngay biện pháp ngăn chặn khi một người nào đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi bản án hình sự có hiệu lực thì lúc đó các tài sản của bị cáo đã bị ngăn chặn, phong tỏa. Chỉ thị 04 cũng nhấn mạnh việc áp dụng ngay các biện pháp ngăn chặn, tránh tẩu tán, chuyển dịch, hay hợp thức hóa tài sản tham nhũng.

Đối tượng tham nhũng thường là những người có chức, có quyền nên thường có kinh nghiệm, mưu mô, thậm chí họ dùng quyền lực để bảo toàn tài sản đã chiếm đoạt được, song ông Đinh Văn Minh cho rằng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, các giải pháp của từ quy định của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước phải đồng bộ, mạnh mẽ hơn để xử lý vấn đề này. 

Theo đó, cần tăng cường kiểm soát, quản lý đối với cán bộ công chức, nhất là những người có chức vụ, quyền hạn cao. Đối chiếu với 27 biểu hiện suy thoái đã được chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, ngay trong cuộc sống hàng ngày, nếu cán bộ có biểu hiện sống xa hoa, phô trương, lãng phí, có biểu hiện chạy chức, chạy quyền... thì tổ chức, đơn vị phải kiểm soát, ngăn chặn ngay từ đầu.

Không chỉ quản lý cán bộ mà hiện nay còn phải quản lý dòng tiền, hạn chế tối đa các giao dịch tiền mặt, buộc phải thông qua tài khoản, như thế mới kiểm soát được. Bởi thực tế, không có chuyện các đối tượng mang mấy chục triệu USD đi biếu nhau, mà chuyển khoản hoặc qua các giao lịch lớn. Do đó, những giao dịch này phải đặt dưới sự kiểm soát.

Nhà nước bảo đảm cho công dân thực hiện các quyền của mình, nhưng Nhà nước cũng cần có các biện pháp để kiểm soát, phát hiện và ngăn chặn ngay những biểu hiện không lành mạnh. Như ở nước ngoài, các giao dịch lớn thường kiểm soát được hết để ngăn chặn việc tài trợ tiền cho khủng bố, ngăn chặn việc rửa tiền, ngăn chặn tham nhũng.

“Chúng ta vừa quản lý con người, vừa quản lý các dòng tiền, quản lý các giao dịch và nhiều biện pháp khác, thì khi đó mới bảo đảm tài sản của những người có chức vụ, quyền hạn, những biểu hiện bất minh trong quá trình gia tăng tài sản một cách bất thường được cơ quan chức năng kiểm soát, từ đó làm rõ hành vi vi phạm, có căn cứ để xử lý về mặt con người cũng như về mặt tài sản” – ông Đinh Văn Minh nhấn mạnh./.

Kim Anh/VOV.VN