Vậy: Người phạm tội là cấp dưới được MIỄN HÌNH PHẠT trong trường hợp nào?
- Cụ thể, theo Khoản 1 Điều 5 Dự thảo Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm về tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ và các quy định việc xử lý tội phạm tham nhũng, tội phạm khác về chức vụ phải bảo đảm nghiêm khắc và tuân thủ triệt để các nguyên tắc của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự.
- Tại Khoản 2 điều 5 Dự thảo nêu, trong quá trình tố tụng, người phạm tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và đã hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì không áp dụng mức cao nhất của khung hình phạt đối với người phạm tội.
- Đồng thời, tại khoản 3 Điều 5 Dự thảo Nghị quyết nêu: Cơ quan tiến hành tố tụng xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS hoặc người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
|
Theo quy định tại điểm b khoản 3 điều 5 nêu trên, đối với cấp dưới nếu phạm tội trong mối quan hệ lệ thuộc và có hành vi, thái độ hợp tác tích cực sau phạm tội thì có thể được miễn hình phạt. Điều này không phải miễn truy cứu hình sự hoàn toàn mà chỉ miễn hình phạt sau khi đã bị truy cứu, dựa trên đánh giá của Tòa án.
3 điều kiện để được xem xét không truy cứu trách nhiệm hình sự
Đáng chú ý, khoản 4 Điều 5 Dự thảo đề xuất quy định mới hướng dẫn về điều kiện để một người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có đủ 3 điều kiện:
|
Đây là quy định chung, không chỉ dành riêng cho cấp dưới, nhưng có thể áp dụng nếu cấp dưới thực hiện theo lệnh và hành vi đáp ứng các tiêu chí trên. Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự đối với tội phạm tham nhũng và các tội phạm khác về chức vụ, đánh dấu bước tiến mang tính đột phá, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro lạm dụng và khó kiểm soát.
Dự thảo mang tính đột phá
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia pháp lý, quy định này được đánh giá là một trong những bước tiến mới trong hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW của Bộ Chính trị về "đổi mới, sáng tạo vì lợi ích quốc gia". Cụ thể, với các quan điểm:
- Bảo vệ cấp dưới và khuyến khích đổi mới: Trước đây, cấp dưới có thể bị "liên lụy" khi tuân thủ lệnh cấp trên, dẫn đến tâm lý có phần e ngại, trì trệ trong công việc. Quy định miễn hình phạt hoặc không truy cứu nếu không có yếu tố vụ lợi, khuyến khích cấp dưới dám nghĩ, dám làm, dám đột phá trong nhiệm vụ, công việc được phụ trách đặc biệt trong bối cảnh Nhà nước đang triển khai các dự án lớn về phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục - quốc phòng…
- Tích hợp khoan hồng thực tiễn: Kết hợp hài hòa với Điều 59 BLHS (về miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp đặc biệt), dự thảo mở rộng phạm vi khoan hồng cho người “thực hiện theo chỉ đạo”. Điều này mang lại nhiều lợi ích thiết thực:
- Tập trung nguồn lực xử lý người cầm đầu, chủ mưu, vai trò mấu chốt;
- Giảm số lượng vụ án tham nhũng nhỏ lẻ, tránh xử lý hình sự tràn lan;
- Khuyến khích tự nguyện khai báo, hợp tác điều tra, khắc phục tối đa thiệt hại → rút ngắn thời gian giải quyết vụ án, tiết kiệm ngân sách nhà nước.
- Hỗ trợ phát triển kinh tế: Quy định giảm rủi ro pháp lý cho cả cán bộ công chức và doanh nghiệp tham gia dự án nhà nước, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch.
Dự thảo mang tính chất chứa đựng rủi ro
Mặc dù dược đánh giá là mang tính đột phá nhưng quy định này theo nhiều chuyên gia cũng chứa đựng một số rủi ro tiềm ẩn, dựa trên pháp lý và thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam:
- Lạm dụng để che đậy tham nhũng: Các điều kiện như "mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội" hay "không vụ lợi" có thể bị nhìn nhận một cách chủ quan, phiến diện dẫn đến tình trạng cán bộ cấp cao lợi dụng che giấu thất thoát. Ví dụ, một dự án gây lãng phí ban đầu nhưng sau được "khắc phục" bằng cách bù đắp từ nguồn khác. Điều này tạo kẽ hở pháp lý cho các hành vi tham nhũng có tổ chức, có sự bao che từ cấp cao. Từ đó có thể gây khó khăn cho các Cơ quan tư pháp trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm.
- Khó khăn trong đánh giá và minh bạch:
- “ Chủ thể nào có thẩm quyền xác định “hiệu quả kinh tế - xã hội”?
- Cơ quan chuyên ngành? → Dễ thiếu khách quan.
- Tòa án? → Có thể thiếu chuyên môn đánh giá kinh tế.
- Hội đồng thẩm định độc lập? → Chưa có quy định cụ thể.
- Thiếu đi tiêu chí định lượng rõ ràng (như tỷ suất hoàn vốn, lợi ích xã hội đo lường được…). Từ đó dễ dẫn đến xử lý bất nhất giữa các vụ việc, làm suy yếu hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
- “ Chủ thể nào có thẩm quyền xác định “hiệu quả kinh tế - xã hội”?
- Ảnh hưởng đến công bằng pháp lý và lòng tin xã hội: Cấp dưới có thể bị ép tuân lệnh sai trái mà không dám phản đối, hoặc quy định chỉ bảo vệ "cấp dưới" mà không xử lý nghiêm cấp trên, dẫn đến tình trạng "trên bảo dưới không nghe" hoặc ngược lại. Ngoài ra, nếu quy định áp dụng không nhất quán, có thể làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào hệ thống tư pháp, đặc biệt khi các vụ tham nhũng lớn thường liên quan lợi ích nhóm.