Sống chung với nhau như vợ chồng mà vợ bỏ đi theo người khác thì giải quyết như thế nào?
Anh tôi và chị H cưới nhau khi chưa đủ tuổi nên 2 người chưa đăng kí kết hôn (đã làm đám cưới và chung sống với nhau như vợ chồng được gần 3 năm). Trong khi anh tôi đi xuất khẩu lao động ở Nhật bản thì chị H bỏ đi theo người đàn ông khác khi chưa được sự đồng ý của bên gia đình tôi và chồng. Vậy trong trường hợp này anh tôi nên giải quyết như thế nào?
Xin cảm ơn!
Chào bạn! Cảm ơn đã tin tưởng và gửi câu hỏi tới Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự. Để có thể đưa ra câu trả lời chính xác nhất cho thắc mắc của bạn, Hongbach.vn có ý kiến tư vấn như sau:
Căn cứ pháp lý:
- Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
- Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình
Khái niệm sống chung như vợ chồng được quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “7. Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.”
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“Điều 9. Đăng ký kết hôn
1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch”
…….
Như vậy, đối với trường hợp của anh bạn và chị H, do 02 người không tiến hành đăng kí kết hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ vợ chồng giữa hai người không có giá trị về mặt pháp lý, không được pháp luật công nhận mặc dù cả hai đã làm đám cưới và chung sống với nhau như vợ chồng. Lúc này, các quan hệ về tài sản, con chung sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, cụ thể như sau:
“Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.”
Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định:
“1….
2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”
Ngoài ra, khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình cũng quy định:
“1,2,3….
4. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình.”
Như vậy, căn cứ vào các quy định trên, anh bạn có thể lựa chọn các hướng giải quyết như sau:
Thứ nhất, nếu anh bạn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng với chị H, 2 người có thể tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và pháp luật về hộ tịch ngay sau khi đã đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Khi đó, quan hệ hôn nhân giữa hai người sẽ được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, đối với trường hợp này do chị H đã bỏ nhà đi, không còn tình cảm với anh bạn nên khó có thể thực hiện được.
Thứ hai, nếu anh bạn không muốn xác lập quan hệ vợ chồng với chị H mà một trong 2 bên muốn giải quyết quan hệ tài sản, nuôi con chung thì anh bạn có thể yêu cầu Tòa án giải quyết 02 vấn đề này. Nếu anh bạn hoặc chị H có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì Tòa án sẽ giải quyết theo hướng:
- Quyền, nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con được giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con (Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình 2014).
- Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của anh bạn và chị H được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chị H và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập (Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)
Trên đây là nội dung tư vấn của Hongbach.vn liên quan đến vấn đề pháp lý bạn đang vướng mắc, nếu còn những vấn đề chưa rõ thì bạn có thể phản hồi cho chúng tôi qua địa chỉ:
Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự
Trụ sở: Số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại: 024.6299.6666; Fax: 024.62.55.88.66
Web: hongbach.vn; Email: bach@hongbach.vn