Quy định về chế định giám hộ
Giám hộ là chế định hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhóm đối tượng chưa phát triển đầy đủ về thể lực hoặc trí lực. Tuy nhiên, một người muốn trở thành người giám hộ của nhóm người này phải đáp ứng các điều kiện mà pháp luật quy định. Dưới đây là một số nội dung phân tích, giải thích quy định về giám hộ.
Khái niệm giám hộ
Giám hộ là việc cá nhân/tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi chung là người được giám hộ).
Ngoài ra, trong trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọ người giám hộ cho mình, thì khi họ rơi vào tình trạng cần được giám hộ, cá nhân/pháp nhân được lựa chọn sẽ trở thành người giám hộ nếu họ đồng ý
Người được giám hộ bao gồm:
Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu;
Người mất năng lực hành vi dân sự.
Một người có thể giám hộ cho nhiều người, nhưng một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp người giám hộ là cha, mẹ hoặc ông, bà theo quy định về giám hộ đương nhiên.
Điều kiện để trở thành người giám hộ
Cá nhân, pháp nhân có điều kiện riêng để trở thành người giám hộ. Hai chỉ thể này cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện được quy định tại BLDS.
Điều kiện của cá nhân
Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ;
Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về một trong các tội có ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác;
Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.
Điều kiện đối với pháp nhân
Có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám hộ;
Có điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Bên cạnh những điều kiện trên, để chính thức trở thành người giám hộ, cá nhân, pháp nhân còn cần phải được UBND cấp xã cử hoặc được Tòa án chỉ định. Đối với trường hợp được người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn trở thành người giám hộ, cá nhân, pháp nhân được chọn sẽ trở thành người giám hộ nếu họ đồng ý và việc lựa chọn người giám hộ đã được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực.
Người giám hộ đương nhiên
Người giám hộ đương nhiên được áp dụng đối với người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự, bởi hai chủ thể này hoàn toàn chưa phát triển về thể lực hoặc trí lực, hoặc không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Như vậy, người có khó khăn về nhận thức và làm chủ hành vi không có người giám hộ đương nhiên.
Việc xác định người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được quy định tại Điều 52 BLDS 2015 như sau:
Người chưa thành niên có người giám hộ đương nhiên là người chưa thành niên có cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giam hộ;
Người giám hộ đương nhiên cho các đối tượng trên được xác định theo thứ tự sau: (i) anh, chị ruột theo thứ tự anh chị ruột là anh cả, chị cả, trừ trường hợp người này không có đủ điều kiện trở thành người giám hộ hoặc có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ; (ii) ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; (iii) bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột.
Như vậy, có thể thấy người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên là những người có quan hệ huyết thống ruột thịt với người được giám hộ. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 136 BLDS 2015, cha mẹ không phải người giám hộ đương nhiên của con chưa thành niên mà là người đại diện đương nhiên của con chưa thành niên.
Việc xác định người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 53 BLDS 2015:
Trước khi xác định người giám hộ đương nhiên cho đối tượng này theo Điều 53 BLDS 2015, cần xác định xem trước khi mất năng lực hành vi dân sự, người này liệu đã lựa chọn cá nhân, pháp nhân nào trở thành người giám hộ cho họ khi mất năng lực hành vi dân sự hay không. Nếu có, người được lựa chọn sẽ trở thành người giám hộ cho họ;
Nếu không tồn tại trường hợp ưu tiên trên, người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định theo từng trường hợp cụ thể như sau:
Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ, hoặc ngược lại
Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự còn người kia không đủ điều kiện đảm nhận việc giám hộ thì người con cả là người giám hộ, nếu người con cả không đủ điều kiện thì người con tiếp theo đủ điều kiện sẽ đảm nhận việc giám hộ;
Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự mà chưa có vợ hoặc có chồng, con hoặc có những người trên mà họ không đủ điều kiện đảm nhận việc giám hộ thì cha, mẹ của người này sẽ đảm nhận việc giám hộ.
Nghĩa vụ của người giám hộ
Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi
Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ. Đây là nghĩa vụ quan trọng hàng đầu bởi người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi vẫn còn là trẻ em, chưa phát triển đầy đủ về thể lực và trí lực, cần được chăm sóc;
Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có quyền tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Cụ thể, người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi;
Quản lý tài sản của người được giám hộ
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được pháp luật cho phép tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Cụ thể, nhóm đối tượng này được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý;
Quản lý tài sản của người được giám hộ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Chăm sóc, bảo đảm điều trị bệnh cho người được giám hộ;
Đại diện cho người giám hộ trong các giao dịch dân sự;
Quản lý tài sản của người được giám hộ;
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
Lưu ý: Chế định giám hộ có vai trò quan trọng, bởi khi một người trở thành người được giám hộ, tài sản cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của họ đều phụ thuộc vào một người khác. Nếu không lựa chọn người giám hộ phù hợp, đáp ứng đầy đủ và trọn vẹn các điều kiện luật định, người được giám hộ sẽ trở thành đối tượng dễ chịu tổn thương, không có khả năng tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Trên đây là toàn bộ nội dung phân tích, tư vấn của Luật Hồng Bách, trong trường hợp còn thắc mắc nào khác, vui lòng liên hệ qua địa chỉ:
Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự
Trụ sở: Số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại: 024.6299.6666; Fax: 024.62.55.88.66
Website: hongbach.vn; Email: quanly@hongbach.vn