Tội vu khống và những vấn đề về pháp lý!
Câu hỏi: Xin chào Luật sư, tôi đang có vướng mắc về pháp luật và cần được Luật sư giải đáp, nội dung vụ việc như sau: Tôi và M là bạn bè, có mối quan hệ làm ăn với nhau đã lâu, tôi kinh doanh quán cà phê và từ trước đến nay tôi thường nhập nguyên liệu từ chỗ của anh M. Khoảng hơn 5 tháng trước, trong một lần lấy hàng vì chưa có tiền nên tôi đã thiếu tiền hàng của anh M số tiền 50 triệu đồng, do là chỗ bạn bè làm ăn lâu năm và đây cũng không phải lần đầu tôi chậm tiền hàng của anh M nên anh M hoàn toàn đồng ý. Sau lần lấy hàng này, tình hình dịch bệnh bùng phát ảnh hưởng không nhỏ tới việc làm ăn kinh doanh của tôi nên số lượng hàng tôi lấy của anh M cũng ít hơn trước, đồng thời cũng chưa thể hoàn trả cho anh M số tiền 50 triệu đồng. Cách đây ít ngày anh M liên lạc để đòi tiền của tôi, tôi có đề nghị anh M thông cảm và tôi sẽ trả trước 15 triệu còn lại trả góp theo hàng tháng vì kinh tế bị ảnh hưởng lớn từ dịch bệnh, M không đồng ý và cho rằng tôi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 50 triệu này, và đã khởi kiện, tố cáo tôi trước pháp luật với hành vi lừa đảo chiếm đoạt. Vậy xin hỏi Luật sư, hành vi của tôi có phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt không? Nếu không thì việc anh M kiện tôi có phải là hành vi vu khống người khác không? Mong Luật sư tư vấn giúp tôi, xin chân thành cảm ơn!
Trả lời :
Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi tới Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự. Với những nội dung vướng mắc của bạn thì Luật Hồng Bách có quan điểm tư vấn như sau:
Đối với nội dung câu hỏi thứ nhất thì căn cứ vào Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) và các văn bản pháp luật liên quan hướng dẫn về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó.
Trong đó, đặc điểm nổi bật của hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chủ thể khác là ý thức chiếm đoạt, thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt và là nguyên nhân trực tiếp khiến người bị hại tin tưởng mà giao tài sản cho người phạm tội thì mới là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Vì vậy, theo thông tin bạn cung cấp, chúng tôi nhận định rằng hành vi của bạn trong vụ việc chưa đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ông M mà giữa bạn và ông M đang xác lập quan hệ mua bán theo các quy định của Bộ luật dân sự, việc ông M cho rằng bạn có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoàn toàn chưa đủ căn cứ pháp lý.
Đối với nội dung câu hỏi thứ hai về việc có cơ sở cho rằng ông M có hành vu khống bạn hay không?
Theo quy định của pháp luật thì hành vi vu khống người khác được hiểu là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm mục đích xúc phạm danh dự, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. Về mặt chủ quan của tội này, quy định bắt buộc người thực hiện hành vi vu khống người khác phải nhận thức được rằng những hành vi của bản thân họ là sai sự thật, không đúng với những hành vi trên thực tế mà người bị vu khống đã thực hiện, người thực hiện hành vi vu khống phải có ý thức chủ quan, ý chí, mục đích nhằm mục đích gây ra các thiệt hại về tinh thần, vật chất đối với người bị vu khống.
Trong trường hợp của bạn, hành vi của ông M không nhằm mục đích xúc phạm danh dự của bạn, mà chỉ hướng tới việc đòi lại tiền đã bán hàng cho bạn. Vì vậy, chúng tôi nhận định, chưa có cơ sở để cho rằng, nhận định hành vi tố cáo bạn trước cơ quan chức năng của ông M là hành vi vu khống người khác.
Giả sử, nếu như hành vi của ông M đáp ứng những yếu tố như chúng tôi đã phân tích nêu trên, thì theo điểm b Khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự 2015, hành vi của ông M có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm về việc vu không người khác.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật sư liên quan đến vấn đề pháp lý bạn đang vướng mắc, Luật Hồng Bách xin chúc bạn và gia đình sức khỏe và bình an! Nếu còn những vấn đề chưa rõ thì bạn có thể phản hồi cho chúng tôi qua địa chỉ:
Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự
Trụ sở: Phòng 403 tầng, số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
Điện thoại: 024.6299.6666 Email: bach@hongbach.vn