Bạn đang ở đây

giết người

Án lệ số 45: Về xác định bị cáo phạm tội “Giết người” thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt”

Thời gian đọc: 31 Phút
Án lệ số 45/2021 được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2021 và được công bố theo Quyết định số 594/QĐ-CA ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

ÁN LỆ SỐ 45/2021/AL

Về xác định bị cáo phạm tội “Giết người” thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt”

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2021 và được công bố theo Quyết định số 594/QĐ-CA ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Bản án hình sự phúc thẩm số 395/2021/HS-PT ngày 24/9/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án hình sự “Giết người” đối với các bị cáo Nguyễn Bá T, Phạm Hoàng T1, Phạm Quang V, Nguyễn Đinh An K.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 4 và đoạn 5 phần “Nhận định của Tòa án”.

- Tình huống án lệ:

Bị cáo cố ý thực hiện hành vi nhằm tước đoạt tính mạng của bị hại, bị hại bị tổn hại sức khỏe với tỷ lệ là 100%.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa án phải xác định là hậu quả chết người chưa xảy ra, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt”.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

Điều 15, Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Từ khóa của án lệ:

“Tước đoạt tính mạng”; “Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 100%”; “Phạm tội chưa đạt”; “Giết người”.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Bá T cùng Phạm Quang V, Phạm Hoàng T1 và Nguyễn Đinh An K là bạn bè xã hội. Đầu năm 2018, Nguyễn Bá T có quan hệ tình cảm với chị Lê Minh A1 (sinh năm 2002; trú tại tổ 41, phường Ô, quận Đ, Hà Nội), đến cuối năm 2018 thì hai người chia tay nhau. Qua tìm hiểu, Nguyễn Bá T biết chị Lê Minh A1 chuyển sang yêu anh Hồng Quốc A (sinh năm 2002; trú tại số nhà 9A, ngõ 344, ngách 50/1, đường N, phường T, quận L, Hà Nội), cùng là bạn cũ trong nhóm của Nguyễn Bá T, nên tỏ ra bực tức và muốn tìm đánh anh Hồng Quốc A để trả thù.

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 05/01/2019, sau khi uống rượu, Nguyễn Bá T gọi điện thoại cho Nguyễn Đinh An K để hỏi về chuyện anh Hồng Quốc A yêu người yêu của T, đồng thời hẹn K ra khu vực chợ M ở phường B, quận H, Hà Nội để nói chuyện. Lúc này, Nguyễn Đinh An K đang đi chơi cùng Nguyễn Hữu Nam S (sinh năm 2000), Vũ An K1 và đối tượng tên “K2” (chưa rõ lai lịch) trên 03 xe máy ở khu vực gần cầu C, K nhận điện thoại của Nguyễn Bá T nên rủ S, K1 và K2 cùng đi ra khu vực chợ M để gặp Nguyễn Bá T.

Nguyễn Bá T gọi điện cho Nguyễn Đinh An K xong thì gặp Phạm Quang V ở khu vực đường C nên bảo V đi cùng có việc. V và T đi xe máy ra khu vực nóc hầm L, quận Đ, Hà Nội thì gặp Phạm Hoàng T1 cùng Phan Tuấn A2 (sinh năm 2000) và các đối tượng là Đ, D và 02 thanh niên khác (chưa rõ lai lịch). Đ hỏi T đi đâu thì T nói “Đi tìm con chó này” (tức tìm Hồng Quốc A) và hỏi lại Đ: “Có đi cùng không?” Đ và T1, Tuấn A2, D và 02 thanh niên kia đều đồng ý đi cùng. Sau đó, Nguyễn Bá T cùng Phạm Quang V, Phạm Hoàng T, Tuấn A2, Đ, D và 02 thanh niên chưa rõ lai lịch di chuyển bằng xe máy từ nóc hầm L đến khu vực chợ M. Tại đây, nhóm của Nguyễn Bá T gặp K, S, K1 và K2.

Trong nhóm chỉ có Nguyễn Đinh An K biết nhà anh Hồng Quốc A nên Nguyễn Bá T bảo K dẫn đường, K có hỏi lại: “Có chuyện gì?” T trả lời: “Nó chơi với tao mà nó cắn tao, nó ăn lại người yêu của tao, mày dẫn tao sang tiêu diệt nó”. Nguyễn Bá T dọa nếu K không chỉ đường thì sẽ coi K là kẻ thù. Do nể nang nên Nguyễn Đinh An K đồng ý dẫn đường cho T và cả nhóm sang nhà anh Hồng Quốc A ở quận L. Trước khi đi, Nguyễn Bá T bảo mọi người vào đổ xăng tại cây xăng đường V quận H để T trả tiền, đồng thời bảo V đi lấy hung khí nhưng K và V ngăn lại nên thôi. Sau đó, Nguyễn Bá T cùng K, V, T1, Tuấn A2, K1, S, K2, Đ, D và 02 thanh niên chưa rõ lai lịch đi khoảng 05 xe máy, trong đó Tuấn A2 và T1 đi xe wave màu xanh biển kiểm soát 29C1-613.93; K và đối tượng tên “K2” đi xe wave màu đen biển kiểm soát 29B1-936.67... cùng đi sang phường T, quận L.

Khi Nguyễn Đinh An K đưa các đối tượng đến trước nhà anh Hồng Quốc A, Nguyễn Bá T gọi nhưng anh Hồng Quốc A không xuống; T dọa “Mày có tin năm nghìn xăng đốt cả nhà mày không” nên anh Hồng Quốc A sợ và đi xuống gặp T để nói chuyện, còn các đối tượng khác đi ra phía ngoài ngõ đứng chờ. Trong lúc nói chuyện, Nguyễn Bá T nói “Mày biết nó là người yêu anh không, mày với nó hôn nhau bao nhiêu lần rồi, đã làm gì nhau chưa” nhưng anh Hồng Quốc A không thừa nhận nên T quát “Cút mẹ mày ra”.

Lúc này, Phạm Quang V đi vào gọi anh Hồng Quốc A ra nói chuyện; khi anh Quốc A đi ra đầu ngõ, đến vị trí T1 đang đứng thì Phạm Hoàng T1 nói “Thằng này nhìn đẹp trai thế này mà đi cướp người yêu”. Nghe vậy, anh Hồng Quốc A huých vào vai Phạm Hoàng T1 thì bị T1 dùng chân đá 02 phát vào chân. Khi anh Hồng Quốc A ra đến đầu ngõ nơi cả nhóm đang đỗ xe thì Phạm Quang V bảo anh Hồng Quốc A ngồi xuống. Phạm Hoàng T1 đi đến dùng chân phải đá 01 phát vào vùng đầu gối của anh Hồng Quốc A, rồi chạy đi lấy gậy và gạch để đánh thì được Tuấn A2 can ngăn nên T1 vứt gạch và gậy đi. Lúc này, Nguyễn Bá T nói: “Đ nện nó” thì Đ lao vào dùng chân đá anh Hồng Quốc A làm bị hại ngã nghiêng người. Phạm Quang V lao vào kéo anh Hồng Quốc A lên và nói “Mày biết đòn tù thế nào không?” thì anh Quốc A gạt tay V ra; V dùng đầu gối thúc 01 cái vào vùng hông của anh Quốc A. Anh Hồng Quốc A lùi ra vị trí ban đầu khoảng 01m thì bị Đ lao vào dùng chân đá 01 phát vào mặt làm anh Quốc A ngã xuống đường, nằm trong tư thế hai tay ôm đầu. Đ tiếp tục dùng chân dẫm 03 - 04 cái vào vùng đầu của anh Hồng Quốc A. Thấy vậy, Phạm Hoàng T1 lao vào dùng chân đạp 01 cái vào vùng lưng anh Hồng Quốc A. Cùng lúc, Nguyễn Bá T đi từ trong ngõ ra và nói với Phạm Quang V là “Gỗ kìa”; đồng thời chỉ cho V miếng gỗ có diện khoảng (40x60)cm ở gần đấy.

V đã nhặt miếng gỗ vung lên đập vào vùng đầu anh Hồng Quốc A, làm miếng gỗ bị tách làm đôi. Lúc này, Nguyễn Đinh An K và K2 chứng kiến nhóm của T đánh anh Hồng Quốc A xong và lên xe đi về. Đ tiếp tục nhặt mảnh gỗ bị vỡ để đập vào anh Hồng Quốc A. Khi bị hại vẫn nằm trên đường, Phạm Hoàng T1 lao đến dùng chân dẫm một cái vào vùng mặt anh Hồng Quốc A thì Nguyễn Bá T nói “Mày giết nó à”.

Sau đó, Phạm Quang V lấy xe máy để về đến vị trí anh Quốc A nằm và nói: “Mày nằm im đấy, mai tao không thấy mày nằm đấy thì tao đánh mày tiếp”. Nguyễn Bá T cũng nói “Mày chết chưa” nhưng anh Hồng Quốc A chỉ cựa người không nói được gì. Sau đó tất cả các đối tượng lên xe đi về, anh Hồng Quốc A được người dân xung quanh đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện V.

Ngày 08/01/2019 và ngày 10/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận L thực hiện bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Đinh An K, Phạm Hoàng T1 và Phạm Quang V. Sau khi xảy ra vụ việc, Nguyễn Bá T đã bỏ trốn đến ngày 14/7/2019 ra đầu thú. Vụ án sau đó được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận giám định pháp y thương tích số 68/TTPY ngày 16/01/2019 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế H đối với bị hại Hồng Quốc A xác định: “...Bị hại Hồng Quốc A bị gãy xương chính mũi, tụ dịch xoang hàm xoang bướm hai bên; tụ máu dưới màng cứng bán cầu trái, tụ máu khoang dưới nhện, phù não xoá ranh giới các cuộn não cả hai bán cầu, đường giữa lệnh phải. Hệ thống não mất cân đối. Tụ máu dưới da đầu đỉnh phải. Sưng nề trán thái dương trái; bầm tím sưng nề cánh cẳng tay hai bên; sưng nề vai, mu bàn tay trái. Kết luận: Anh Hồng Quốc A bị chấn thương sọ não, hiện sống thực vật. Hiện chưa đánh giá được mức độ di chứng do chấn thương sọ não gây nên, đề nghị giám định bổ sung khi ra viện. Nhiều khả năng các thương tích do vật tày gây nên. Tỷ lệ tổn hại sức khoẻ là 100%”.

Trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra vụ án, bà Phạm Thanh T2 (đại diện hợp pháp của bị hại Hồng Quốc A) xác nhận đại diện gia đình các bị cáo Phạm Hoàng T1, Phạm Quang V và Nguyễn Đinh An K đã bồi thường cho gia đình chị với tổng số tiền là 75.000.000 đồng. Bà T2 tiếp tục yêu cầu các bị cáo bồi thường cho bị hại Hồng Quốc A khi vụ án được đưa ra xét xử.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 150/2020/HSST ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Bá T, Phạm Quang V, Phạm Hoàng T1 và Nguyễn Đinh An K phạm tội “Giết người”;

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, o khoản 1 Điều 52; Điều 39; Điều 48; Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Bá T;

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 48; Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với Phạm Quang V;

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 48; Điều 58; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự đối với Phạm Hoàng T1;

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 48; Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Đinh An K; xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Bá T tù chung thân, thời hạn tù được tính từ ngày 14/7/2019.

- Bị cáo Phạm Quang V 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2019.

- Bị cáo Phạm Hoàng T1 12 (mười hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2019.

- Bị cáo Nguyễn Đinh An K 11 (mười một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo phải bồi thường cho anh Hồng Quốc A do bà Phạm Thanh T2 đại diện số tiền: 1.104.069.000 đồng. Trong đó chia theo phần: Nguyễn Bá T: 400.000.000 đồng; Phạm Quang V 300.000.000 đồng, đã bồi thường được 5.000.000 đồng, còn phải bồi thường 295.000.000 đồng; Phạm Hoàng T1 250.000.000 đồng, đã bồi thường được 65.000.000 đồng, còn phải bồi thường 185.000.000 đồng, Nguyễn Đinh An K 154.069.000 đồng, đã bồi thường được 5.000.000 đồng, còn phải bồi thường 149.069.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về lãi suất chậm trả, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/5/2020, bị cáo Nguyễn Đinh An K có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 26/5/2020, bị cáo Nguyễn Bá T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 28/5/2020, bị cáo Phạm Quang V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 29/5/2020, đại diện hợp pháp của người bị hại là bà Phạm Thanh T2 có đơn kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo và cho rằng quan điểm áp dụng khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đinh An K là không đúng; số tiền bồi thường không đáng kể gì so với tổn thất đã bỏ ra để cứu chữa anh Hồng Quốc A, đề nghị xem xét lại bản án.

Tại Quyết định kháng nghị số 05/KN-VTVKS ngày 26/5/2020, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kháng nghị bản án sơ thẩm, theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Phạm Quang V, áp dụng khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Đinh An K.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; người đại diện hợp pháp cho bị hại Hồng Quốc A rút toàn bộ kháng cáo; đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Phạm Quang V, Nguyễn Đinh An K và Phạm Hoàng T1.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội rút toàn bộ kháng nghị; đề nghị giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Bá T, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Phạm Quang V, Nguyễn Đinh An K và Phạm Hoàng T1- mỗi bị cáo khoảng từ 6 đến 12 tháng tù do tại phiên toà phúc thẩm các bị cáo này có thêm tình tiết giảm nhẹ mới là bồi thường thiệt hại.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Bá T và bị cáo đều trình bày hoàn cảnh khó khăn (bị cáo từ nhỏ đã không biết mặt cha; mẹ lao động tự do, thu nhập thấp; bị cáo không biết chữ, không có nghề nghiệp); sau khi phạm tội bị cáo rất hối hận, mong được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư và bị cáo Phạm Hoàng T1 đề nghị xem xét giảm hình phạt cho bị cáo vì khi phạm tội bị cáo T1 mới 15 tuổi 4 tháng, hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ mất sớm, có ông nội được thưởng Huân chương kháng chiến; sau khi xét xử đã tác động gia đình bồi thường thêm số tiền 35.000.000 đồng.

Luật sư và bị cáo Phạm Quang V đều trình bày gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo tác động bà nội bồi thường thêm cho bị hại số tiền 300.000.000 đồng và xuất trình bằng tổ quốc ghi công của liệt sỹ Nguyễn Văn A là cậu của bị cáo V nên đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Đinh An K xin lỗi gia đình bị hại về hành vi phạm tội đồng thời tác động gia đình thực hiện nghĩa vụ thi hành bản án, bồi thường cho bị hại số tiền 150.000.000 đồng, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư của bị cáo Nguyễn Đinh An K cho rằng việc truy tố bị cáo ở khoản 1 của Điều 123 Bộ luật Hình sự là không phù hợp mà cần áp dụng Án lệ 17 để xét xử bị cáo ở khoản 2 của điều luật; việc rút kháng nghị bất lợi cho bị cáo là không đúng quy định tại Điều 336 Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ bồi thường dân sự nên đề nghị giảm nhẹ cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tranh luận giữ nguyên quan điểm đã nêu trên.

Đại diện hợp pháp cho bị hại xác nhận gia đình các bị cáo Phạm Quang V và Nguyễn Đinh An K đã thực hiện xong trách nhiệm bồi thường dân sự theo bản án sơ thẩm; bị cáo Phạm Hoàng T1 bồi thường thêm 35.000.000 đồng. Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo đều đã xin lỗi người bị hại, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội và đều có hoàn cảnh khó khăn nên rút yêu cầu kháng cáo, đề nghị giảm hình phạt cho các bị cáo Phạm Quang V, Nguyễn Đinh An K và Phạm Hoàng T1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội rút toàn bộ kháng nghị; đại diện hợp pháp cho bị hại rút kháng cáo vê việc tăng hình phạt đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với Kháng nghị và kháng cáo nêu trên theo quy định tại Điều 342, Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu; lời khai nhận của bị cáo phù hợp nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thẩm tra, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 01 giờ ngày 06/01/2019, vì ghen tuông với anh Hồng Quốc A nên Nguyễn Bá T đã bảo Nguyễn Đinh An K dẫn đường và rủ Phạm Quang V, Phạm Hoàng T1 cùng các đối tượng khác đến nhà anh Hồng Quốc A ở phường N, quận L, Hà Nội.

Khi đến nơi, Nguyễn Bá T chỉ đạo T1, V và các đối tượng khác dùng tay, chân và thanh gỗ liên tục tấn công người bị hại dẫn đến anh Hồng Quốc A bị gãy xương chính mũi, tụ dịch xoang hàm xoang bướm hai bên; tụ máu dưới màng cứng bán cầu trái, tụ máu khoang dưới nhện, phù não xoá ranh giới các cuộn não cả hai bán cầu, đường giữa lệnh phải. Hệ thống não mất cân đối. Tụ máu dưới da đầu đỉnh phải. Sưng nề trán thái dương trái; bầm tím sưng nề cánh cẳng tay hai bên; sưng nề vai, mu bàn tay trái; chấn thương sọ não, hiện sống thực vật; tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 100%.

[4] Vụ án có đồng phạm, hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm; Nguyễn Bá T cho rằng bị hại cướp người yêu của mình nên đã rủ các đối tượng khác đến nhà anh Hồng Quốc A trả thù và nói rõ mục đích tìm bị hại để “tiêu diệt nó”. Phạm Quang V, Nguyễn Đinh An K và Phạm Hoàng T1 không có mâu thuẫn với bị hại nhưng vẫn thống nhất ý chí cùng thực hiện theo chỉ đạo của Nguyễn Bá T.

Các bị cáo nhận thức được tính chất nguy hiểm và hậu quả của việc nhiều người đánh một người, cùng tác động vào những vị trí trọng yếu trên cơ thể, có khả năng làm người bị hại tử vong nhưng vẫn thực hiện. Hành vi liên tục tấn công, dùng chân tay, đánh, đấm vào người, vào mặt; dùng thanh gỗ đập vào đầu bị hại cho đến khi người bị hại nằm bất động; trước khi bỏ đi còn hỏi “mày giết nó à?”, “mày chết chưa?...” thể hiện rõ tính chất côn đồ và ý thức chủ quan của các bị cáo là cùng cố ý tước đoạt tính mạng của bị hại. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Nguyễn Bá T, Phạm Quang V, Phạm Hoàng T1, Nguyễn Đinh Anh K về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[5] Theo Kết luận giám định pháp y thương tích số 68/TTPY ngày 16/01/2019 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế H: “Anh Hồng Quốc A bị chấn thương sọ não, hiện sống thực vật... Tỷ lệ tổn hại sức khoẻ là 100%”. Như vậy, trong vụ án này, các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi nhằm tước đoạt đoạt tính mạng của bị hại nhưng hậu quả chết người không xảy ra, thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự.

[6] Xét kháng cáo của Nguyễn Bá T: Bị cáo là đối tượng khởi xướng, rủ rê, chỉ huy người khác thực hiện hành vi phạm tội. Mặc dù không trực tiếp đánh bị hại nhưng Nguyễn Bá T đã chỉ đạo Phạm Quang V, Phạm Hoàng T1 và một số đối tượng khác đánh anh Hồng Quốc A; xúi giục Phạm Hoàng T1- người dưới 18 tuổi phạm tội; bị cáo có nhân thân xấu, lần này phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên cấp sơ thẩm xác định Nguyễn Bá T có vai trò chính trong vụ án là đúng. Tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự (quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt) quy định: “Nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm”. Đối chiếu hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu ở đoạn [5] thì việc áp dụng hình phạt chung thân đối với bị cáo là không phù hợp nên cần sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt đối với Nguyễn Bá T. Mặc dù Nguyễn Bá T là đối tượng đầu thú, tại phiên tòa phúc thẩm tỏ ra ăn năn hối cải nhưng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của bị cáo và hậu quả đã gây ra thì cần áp dụng hình phạt mức tối đa của quy định trên nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[7] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Quang V: Mặc dù không có mâu thuẫn gì với người bị hại nhưng Nguyễn Bá T rủ đi trả thù thì Phạm Quang V đồng ý ngay. Đến nơi, khi Đ đá anh Hồng Quốc A ngã nghiêng người thì Phạm Quang V lao vào kéo bị hại lên và nói “Mày biết đòn tù thế nào không?”; sau đó V dùng đầu gối thúc 01 cái vào vùng hông của anh Hồng Quốc A, nhặt thanh gỗ vung lên đập vào vùng đầu bị hại làm thanh gỗ bị tách làm đôi.

Khi đi về qua vị trí anh Hồng Quốc A nằm, V nói: “Mày nằm im đấy, mai tao không thấy mày nằm đấy thì tao đánh mày tiếp”. Với chuỗi hành vi nói trên thể hiện vai trò của Phạm Quang V là người thực hành tích cực, trực tiếp tấn công bị hại, khi anh Hồng Quốc A mất khả năng tự vệ thì bỏ mặc nạn nhân nên hành vi đó cần phải xử phạt nghiêm. Tuy nhiên, Phạm Quang V là đối tượng bị Nguyễn Bá T rủ rê; sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo đã bồi thường thêm cho gia đình bị hại được 305.000.000 đồng; đại diện gia đình bị hại xin giảm hình phạt cho bị cáo; gia đình xuất trình bằng Tổ quốc ghi công của Liệt sỹ Nguyễn Văn A là cậu của bị cáo V. Như vậy, Phạm Quang V được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại điểm b, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[8] Xét kháng cáo của Nguyễn Đinh An K: Bị cáo K là đối tượng duy nhất biết nhà anh Hồng Quốc A; kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy K biết rõ việc dẫn Nguyễn Bá T và nhiều người khác đến tìm bị hại để đánh nhưng vẫn thực hiện vì nể bị cáo T (phù hợp với lời khai của T và các bị cáo khác).

Nguyễn Đinh An K không tham gia đánh anh Hồng Quốc A nhưng có mặt tại hiện trường, chứng kiến nhiều người tấn công người bị hại một cách tàn nhẫn mà không can ngăn. Hành vi của bị cáo đã cố ý đặt nạn nhân vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, có thái độ thờ ơ để mặc diễn biến trong khi có thể thấy trước hậu quả có thể xảy ra vì vậy cấp sơ thẩm xác định Nguyễn Đinh An K đồng phạm với các bị cáo khác với cùng tội danh và khung hình phạt là có căn cứ.

Xem xét tình huống và diễn biến hành vi của bị cáo không phù hợp nội dung Án lệ số 17/2018/AL nên không đủ căn cứ áp dụng Án lệ trên như quan điểm của luật sư đề nghị. Xét bị cáo có vai trò đồng phạm giúp sức; nay đã ăn năn hối hận, tác động gia đình bồi thường toàn bộ theo quyết định của bản án sơ thẩm (150.000.000 đồng); đại diện gia đình bị hại xin giảm hình phạt cho bị cáo. Như vậy, Nguyễn Đinh An K được áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có cơ sở chấp nhận kháng cáo, cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất dưới khung hình phạt.

[9] Đối với Phạm Hoàng T1: Khi phạm tội bị cáo Phạm Hoàng T1 mới 15 tuổi 4 tháng; T1 bị Nguyễn Bá T rủ rê, xúi giục phạm tội nhưng lại là người thực hành tích cực.

Hành vi của bị cáo góp phần gây nên hậu quả làm anh Hồng Quốc A bị tổn hại sức khỏe 100%, vì vậy cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục là có cơ sở. Mặc dù Phạm Hoàng T1 không kháng cáo nhưng đối chiếu các quy định tại Điều 91, Điều 101, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự thì cần xem xét áp dụng hình phạt tối đa không quá ½ mức phạt tù mà điều luật quy định. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo 12 năm tù là vượt quá phạm vi quy định đối với người chưa thành niên tại khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự nên cần điều chỉnh lại cho phù hợp.

Mặt khác, Phạm Hoàng T1 có vai trò giúp sức, sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo đã bồi thường thêm cho bị hại 35.000.000 (ba mươi lăm) triệu đồng nên có căn cứ sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bà Phạm Thanh T2 không kháng cáo về nội dung bồi thường dân sự nên giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự nhưng cần ghi nhận số tiền các bị cáo thực hiện nghĩa vụ bồi thường.

[11] Về án phí: Do kháng cáo được xem xét chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 342; Điều 348; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Đình chỉ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội và kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại;

Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho Nguyễn Bá T, Phạm Quang V, Phạm Hoàng T1, Nguyễn Đinh An K;

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, o khoản 1 Điều 52; Điều 15; Điều 17; khoản 3 Điều 57; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Bá T 20 (hai mươi) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù được tính từ ngày 14/7/2019;

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s,b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 15; Điều 17; khoản 3 Điều 57; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Quang V 19 (mười chín) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2019;

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 17; Điều 38; Điều 54; khoản 3 Điều 57; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đinh An K 10 (mười) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2019;

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 17; Điều 38; khoản 3 Điều 57; Điều 58; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Hoàng T1 9 (chín) năm tù về tội “Giết người”, thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2019.

Ghi nhận các bị cáo đã bồi thường cho người bị hại theo quyết định của bản án sơ thẩm, số tiền cụ thể: bị cáo Phạm Hoàng T1 35.000.000 (Ba mươi lăm triệu) đồng (biên lai số 004211 ngày 09/10/2020 tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội); bị cáo Nguyễn Đinh An K 150.000.000 (Một trăm năm mươi triệu) đồng; bị cáo Phạm Quang V 300.000.000 (Ba trăm triệu) đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo và đại diện hợp pháp cho bị hại xác nhận bị cáo Nguyễn Đinh An K và Phạm Quang V đã thực hiện xong trách nhiệm dân sự theo bản án sơ thẩm (số tiền vượt quá, gia đình bị cáo tự nguyện, không yêu cầu trả lại).

Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“[4] Vụ án có đồng phạm, hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm; Nguyễn Bá T cho rằng bị hại cướp người yêu của mình nên đã rủ các đối tượng khác đến nhà anh Hồng Quốc A trả thù và nói rõ mục đích tìm bị hại để “tiêu diệt nó”. Phạm Quang V, Nguyễn Đinh An K và Phạm Hoàng T1 không có mâu thuẫn với bị hại nhưng vẫn thống nhất ý chí cùng thực hiện theo chỉ đạo của Nguyễn Bá T.

Các bị cáo nhận thức được tính chất nguy hiểm và hậu quả của việc nhiều người đánh một người, cùng tác động vào những vị trí trọng yếu trên cơ thể, có khả năng làm người bị hại tử vong nhưng vẫn thực hiện. Hành vi liên tục tấn công, dùng chân tay, đánh, đấm vào người, vào mặt; dùng thanh gỗ đập vào đầu bị hại cho đến khi người bị hại nằm bất động; trước khi bỏ đi còn hỏi “mày giết nó à? ”, “mày chết chưa?...” thể hiện rõ tính chất côn đồ và ý thức chủ quan của các bị cáo là cùng cố ý tước đoạt tính mạng của bị hại. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Nguyễn Bá T, Phạm Quang V, Phạm Hoàng T1, Nguyễn Đinh Anh K về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[5] Theo Kết luận giám định pháp y thương tích số 68/TTPY ngày 16/01/2019 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế H: “Anh Hồng Quốc A bị chấn thương sọ não, hiện sống thực vật... Tỷ lệ tổn hại sức khoẻ là 100%”. Như vậy, trong vụ án này, các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi nhằm tước đoạt đoạt tính mạng của bị hại nhưng hậu quả chết người không xảy ra, thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình sự.”

Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự 
Trụ sở: Số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ quận Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại: 024.6299.6666; Fax: 024.62.55.88.66
Web: hongbach.vn; Email: bach@hongbach.vn

Án lệ số 1: Về vụ án “Giết người”

Thời gian đọc: 15 Phút
Án lệ 01/2016/AL Quyết định giám đốc thẩm số 04/2014/HS-GĐT ngày 16-4-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Giết người”...

Án lệ 01/2016/AL Quyết định giám đốc thẩm số 04/2014/HS-GĐT ngày 16-4-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Giết người” đối với bị cáo: Đồng Xuân Phương, sinh năm 1975; trú tại nhà số 11/73 phố Đinh Tiên Hoàng, Phường Hoàng Văn Thụ, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; là công nhân xây dựng; con ông Đồng Xuân Chì và bà Dương Thị Thông; bị bắt giam ngày 22-6-2007;

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

Quyết định giám đốc thẩm số 04/2014/HS-GĐT ngày 16-4-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Giết người” đối với bị cáo: Đồng Xuân Phương, sinh năm 1975; trú tại nhà số 11/73 phố Đinh Tiên Hoàng, Phường Hoàng Văn Thụ, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; là công nhân xây dựng; con ông Đồng Xuân Chì và bà Dương Thị Thông; bị bắt giam ngày 22-6-2007;

Người bị hại: Nguyễn Văn Soi, sinh năm 1971 (đã chết).

Khái quát nội dung của án lệ:

Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng của họ (người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người); người thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ mưu; việc nạn nhân bị chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Điểm m, n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật Hình sự năm 1999;       

  - Khoản 3 Điều 104 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Từ khóa của án lệ:

“Giết người”; “Cố ý gây thương tích”; “Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”; “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe”; “Thuê người khác gây thương tích”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 15 giờ ngày 21-6-2007, Công an quận Long Biên, thành phố Hà Nội nhận được tin báo đã xảy ra vụ án, nạn nhân bị chết tại khu vực đúc dầm bê tông thi công cầu Thanh Trì thuộc địa phận tổ 12, phường Thạch Bàn, quận Long Biên; nạn nhân là anh Nguyễn Văn Soi (kỹ sư xây dựng thuộc Công ty cổ phần xây dựng 204 thuộc Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng). Qua điều tra, xác minh, Công an quận Long Biên đã bắt khẩn cấp Đồng Xuân Phương.

Quá trình điều tra xác định: Anh Nguyễn Văn Soi và Đồng Xuân Phương cùng làm việc tại Công ty cổ phần xây dựng 204 thuộc Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng (được giao nhiệm vụ thi công, xây dựng cầu Thanh Trì). Khoảng tháng 02-2007, Phương uống rượu say trong giờ làm việc, bị anh Soi dùng điện thoại di động chụp ảnh, báo cáo lãnh đạo nên Phương có ý định trả thù anh Soi.

Ngày 14-6-2007, Đồng Xuân Phương gọi điện thoại cho bạn là Đoàn Đức Lân sinh năm 1975 (trú tại nhà số 11 C98 Trại Chuối, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng) nói việc mâu thuẫn nêu trên và thuê Lân đánh trả thù.

Lân nói sẽ giới thiệu người khác thực hiện. Tối ngày 17-6-2007, Phương từ Hà Nội về Hải Phòng gặp Lân và bạn của Lân là Hoàng Ngọc Mạnh sinh năm 1982 (còn gọi là Thắng; trú tại phường Sở Dầu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng) kể lại việc mâu thuẫn và thuê Lân, Mạnh đánh anh Soi, bằng cách dùng dao đâm vào chân, tay nạn nhân để gây thương tích. Đồng Xuân Phương hỏi giá bao nhiêu, Mạnh và Lân nói tùy nên Phương đã đưa cho Mạnh 1.500.000 đồng. Lân và Mạnh đồng ý.

Khoảng 20 giờ ngày 20-6-2007, Hoàng Ngọc Mạnh đi cùng Nam (là bạn Mạnh; không xác định được địa chỉ) lên Hà Nội gặp Đồng Xuân Phương thống nhất là sẽ đánh anh Soi vào ngày 21-6-2007; sau đó Phương đưa thêm 500.000 đồng để Mạnh thuê chỗ ngủ. Đến khoảng 9 giờ ngày 21-6-2007, Phương dẫn Mạnh và Nam đến đoạn đường anh Soi sẽ qua để đi họp vào đầu giờ buổi chiều hôm đó; rồi quay về Công ty.

Khoảng 11 giờ, Hoàng Ngọc Mạnh đến quán nước tại ngã ba quốc lộ 5 – 1B (quán của chị Phạm Thị Miến) thuê điện thoại di động của chị Miến gọi điện thoại cho Đồng Xuân Phương yêu cầu mô tả đặc điểm nhận dạng và thông báo số điện thoại di động của anh Soi; Phương đã thực hiện theo yêu cầu của Mạnh.

Đến khoảng hơn 13 giờ chiều, Mạnh lại thuê điện thoại di động của chị Miến gọi cho Phương thông báo là đã nhận dạng được anh Soi và Mạnh sẽ thực hiện một mình vì hiện Nam đã bỏ đi đâu không thông báo lại, Đồng Xuân Phương đồng ý.

Khoảng 14 giờ 16 phút cùng ngày, Mạnh đã thuê máy điện thoại di động của chị Miến gọi điện thoại hẹn gặp anh Soi tại khu vực đúc dầm bê tông. Khi anh Soi đến, Mạnh đã dùng dao nhọn chuẩn bị từ trước đâm 02 nhát vào mặt sau đùi phải, làm anh Soi chết.

Án lệ số 01/2016/AL về vụ án “Giết người” ( Ảnh minh họa )

 Tại Bản giám định pháp y số 146/PC21-PY ngày 17-7-2007, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Nạn nhân bị 02 vết thương tại mặt sau đùi phải, vết phía trên xuyên vào cơ đùi 3cm. Vết phía dưới cắt đứt động mạch, tĩnh mạch đùi sau gây chảy mất nhiều máu. Nguyên nhân chết: Sốc mất máu cấp không hồi phục do vết thương động mạch.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra Đồng Xuân Phương còn khai: Ngoài lý do mâu thuẫn giữa bị cáo và anh Soi, việc thuê đâm anh Soi còn có nguyên nhân do bị anh Ngô Văn Toản (là Phó Ban điều hành dự án cầu Thanh Trì) kích động, vì trước đó anh Toản cũng có mâu thuẫn với anh Soi. Cơ quan điều tra đã lấy lời khai của anh Toản, nhưng anh Toản không thừa nhận việc này. Kết quả điều tra không có cơ sở kết luận anh Toản có liên quan đến vụ án.

Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã có quyết định truy nã và quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Đoàn Đức Lân và Hoàng Ngọc Mạnh, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Trong quá trình điều tra, cán bộ và Công ty cổ phần xây dựng 204 đã tự nguyện quyên góp, trợ cấp cho gia đình người bị hại tổng cộng 123.000.000 đồng, trong đó có chi phí mai táng 63.000.000 đồng và 03 sổ tiết kiệm cho gia đình anh Soi, với tổng số tiền gửi là 60.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 164/2008/HSST ngày 17-11-2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; xử phạt Đồng Xuân Phương 17 năm tù về tội “Giết người”.

Buộc Đồng Xuân Phương bồi thường cho gia đình người bị hại tiền tổn thất tinh thần là 32.400.000 đồng và cấp dưỡng hàng tháng cho 02 con và mẹ người bị hại.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Đồng Xuân Phương kháng cáo đề nghị xem xét lại vụ án.

Đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Nguyễn Thị Thanh kháng cáo đề nghị tăng hình phạt, tăng mức bồi thường đối với bị cáo.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 262/2009/HSPT ngày 05-5-2009, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội căn cứ khoản 1 Điều 250 Bộ luật Tố tụng Hình sự, hủy Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để điều tra lại theo thủ tục chung.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 167/2010/HSST ngày 31-3-2010, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; xử phạt Đồng Xuân Phương 17 năm tù về tội “Giết người”.

Buộc Đồng Xuân Phương bồi thường các khoản gồm: Chi phí mai táng 34.583.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần cho vợ con người bị hại tổng số là 39.000.000 đồng và cấp dưỡng hàng tháng cho mẹ và con người bị hại.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02-4-2010, Đồng Xuân Phương kháng cáo xin giảm hình phạt và đề nghị xem xét lại vụ án vì chưa bắt được Mạnh nên không có đủ căn cứ khẳng định việc Mạnh đâm chết anh Soi.

Ngày 13-4-2010, vợ người bị hại là chị Nguyễn Thị Thanh kháng cáo đề nghị tăng hình phạt, tăng mức bồi thường đối với bị cáo.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 475/2010/HSPT ngày 15-9-2010, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội áp dụng các điểm m, n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; xử phạt Đồng Xuân Phương tù chung thân về tội “Giết người”; buộc Đồng Xuân Phương bồi thường tiền bù đắp tổn thất tinh thần là 43.800.000 đồng và giữ nguyên các quyết định khác về bồi thường thiệt hại.

Tại Kháng nghị số 13/KN-HS ngày 22-7-2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về các phần: Tội danh, hình phạt và án phí hình sự phúc thẩm đối với Đồng Xuân Phương; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

Căn cứ vào các lời khai nhận tội của bị cáo Đồng Xuân Phương trong quá trình điều tra và tại các phiên tòa sơ thẩm, phiên Tòa Phúc thẩm; lời khai và kết quả nhận dạng của những người làm chứng về các đối tượng liên quan đến vụ án; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản giám định pháp y cùng các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án; có đủ căn cứ kết luận do mâu thuẫn trong sinh hoạt, Đồng Xuân Phương đã thuê Hoàng Ngọc Mạnh và Đoàn Đức Lân dùng dao đâm anh Nguyễn Văn Soi, với mục đích gây thương tích cho nạn nhân để trả thù.

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; có căn cứ xác định về mặt chủ quan, Phương chỉ muốn gây thương tích cho anh Soi mà không muốn tước đoạt tính mạng, cũng không muốn thuê Mạnh đâm bừa, đâm ẩu vào anh Soi để mặc mọi hậu quả xảy ra. Vì thế, bị cáo chỉ yêu cầu tấn công vào chân, tay mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể, là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân.

Khi thực hiện tội phạm, Mạnh đã đâm 02 nhát đều vào đùi nạn nhân theo đúng yêu cầu của Phương. Hành vi phạm tội của Hoàng Ngọc Mạnh khó thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra. Việc nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp không hồi phục là ngoài ý muốn của Đồng Xuân Phương và đồng phạm. Hành vi của Đồng Xuân Phương thuộc trường hợp phạm tội Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Đồng Xuân Phương về tội “Giết người” là không đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật Tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

1. Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 475/2010/HSPT ngày 15-9-2010 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về các phần: Tội danh, hình phạt và án phí hình sự phúc thẩm đối với Đồng Xuân Phương; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

2. Tiếp tục tạm giam Đồng Xuân Phương cho đến khi Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội thụ lý lại vụ án.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên đã có hiệu lực pháp luật.

NỘI DUNG ÁN LỆ

“Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; có căn cứ xác định về mặt chủ quan, Phương chỉ muốn gây thương tích cho anh Soi mà không muốn tước đoạt tính mạng, cũng không muốn thuê Mạnh đâm bừa, đâm ẩu vào anh Soi để mặc mọi hậu quả xảy ra. Vì thế, bị cáo chỉ yêu cầu tấn công vào chân, tay mà không yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể, là những vị trí nếu bị tấn công thì sẽ có nhiều khả năng xâm hại đến tính mạng nạn nhân.

Khi thực hiện tội phạm, Mạnh đã đâm 02 nhát đều vào đùi nạn nhân theo đúng yêu cầu của Phương. Hành vi phạm tội của Hoàng Ngọc Mạnh khó thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra. Việc nạn nhân bị chết do sốc mất máu cấp không hồi phục là ngoài ý muốn của Đồng Xuân Phương và đồng phạm.

Hành vi của Đồng Xuân Phương thuộc trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã kết án Đồng Xuân Phương về tội “Giết người” là không đúng pháp luật.”

Công ty Luật TNHH Hồng Bách và Cộng sự
Trụ sở: Phòng 403 tầng, số 85 Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại: 024.6299.6666; Fax: 024.62.55.88.66
Web: hongbach.vn; Email: bach@hongbach.vn